Untitled Document
CHƯƠNG TÁM
NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CÁC CÔNG TÁC VIÊN
(Bài nói chuyện của anh Nee tại đường Hardoon, Thượng Hải vào ngày 3 tháng giêng năm 1934; dịch từ bản ghi chép của anh K. H. Weigh).
I. VIỆC DẤY LÊN CÔNG TÁC VIÊN
Điều đầu tiên chúng ta cần thấy là những công tác viên được dấy lên như thế nào. Chính yếu có hai phương diện trong việc dấy những công tác viên. Phương diện thứ nhất liên quan đến các địa phương đã có các buổi nhóm. Tại địa phương đã bắt đầu có các buổi nhóm, nếu một vài anh em có gánh nặng đi đến một địa phương khác công tác, họ phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa và cũng phải được tất cả các anh chị em tại địa phương mình nhóm họp tán thành. Tình trạng này cũng giống như một ngón tay muốn chuyển động; ngón tay ấy không thể chuyển động cách độc lập nhưng phải theo sự chuyển động của toàn thân. Nó chỉ có thể chuyển động sau khi đã được toàn thân tán thành. Đấng Christ là Đầu của Hội thánh . Vì vậy, Hội thánh là Thân Thể của Đấng Christ. Tại địa phương chưa có sự nhóm họp, Thân Thể chưa được bày tỏ. Trong trường hợp đó, cá nhân chịu trách nhiệm với một mình Đức Chúa Trời. Nhưng hễ khi đã có sự nhóm lại tại một địa phương, thì cần có sự tán thành của các anh chị em. Chúng ta có thể nhìn thấy điều này qua phần ký thuật trong Công vụ các Sứ đồ chương 13. Tại An-ti-ốt đã bắt đầu có buổi nhóm, qua Thân Thể, Thánh Linh sai Phao-lô và Ba-na-ba ra đi công tác.
Thứ hai, tại một địa phương chưa có buổi nhóm, thì tình trạng lại khác. Nếu một người nào muốn công tác tại một địa phương là nơi chưa có sự nhóm lại, thì người ấy phải trực tiếp chịu trách nhiệm với Chúa. Trong Công vụ các Sứ đồ chương 11, Hội thánh tại An-ti-ốt chưa xuất hiện, nên Phao-lô và Ba-na-ba chịu trách nhiệm với Đức Chúa Trời cách trực tiếp. Nhưng về sau khi Hội thánh đã sinh ra, thì Thánh Linh qua Thân Thể sai các tiên tri và giáo sư ra đi. Khi ấy công tác của Phao-lô và Ba-na-ba không còn chỉ là trước mặt Đức Chúa Trời, mà cũng trong Thân Thể nữa. Các môn đồ đặt tay trên Phao-lô và Ba-na-ba rồi sai họ đi. Đặt tay nghĩa là cảm thông và liên hiệp. Qua việc đặt tay, tất cả các anh em đều liên kết với Phao-lô và Ba-na-ba trong sự ra đi của họ. Sự ra đi của hai người là sự ra đi của cả Thân Thể. Việc đặt tay này khác với sự phong chức các mục sư. Sự phong chức chúng ta thấy ngày nay là theo truyền thống và không được tìm thấy trong Kinh Thánh.
Sau khi Phao-lô và Ba-na-ba đã được sai đi từ An-ti-ốt, họ tham gia làm công tác Thánh Linh đã giao phó cho mình. Đó là trường hợp đầu tiên trong lịch sử công tác truyền giáo. Trong sự sai phái này, Thánh Linh duy trì uy quyền tuyệt đối của Ngài. Hội thánh không thể tự sai ai đi. Trước khi Hội thánh có thể sai phái ai, phải có tiếng phán của Thánh Linh. Sự sai phái của Hội thánh chỉ là thực hiện mạng lịnh của Thánh Linh và xác nhận sự chuyển động của Thánh Linh mà thôi.
Công vụ các Sứ đồ 15:36-40 đề cập một trường hợp ra đi khác. Trong những câu này chúng ta thấy con đường phân rẽ của Phao-lô và Ba-na-ba. Phao-lô đề nghị chỉ hai người nên đi, nhưng Ba-na-ba nhất quyết cho rằng họ nên đem Mác theo. Phao-lô nghĩ rằng cho Mác cùng đi là điều không thích đáng. Giữa hai người có một sự tranh luận gay gắt. Vì vậy, Ba-na-ba quyết định đem Mác theo mình, nhưng Phao-lô chọn Si-la và đi đường khác. Câu 40 nói: “Nhưng Phao-lô... ra đi, được các anh em giao thác cho ân điển của Chúa”. Đó là sự khác biệt giữa hai người. Phao-lô được Thân Thể sai đi, trong khi Ba-na-ba không được Thân Thể sai đi. Phao-lô được các anh em giao phó cho ân điển của Chúa. Ba-na-ba thì không. Trong điều này, Thân Thể đứng về phía Phao-lô. Sau Công vụ các Sứ đồ chương 15, Ba-na-ba không còn được nhắc đến nữa. Trong sự kiện này, Thánh Linh xác quyết sự sai đi của Thân Thể.
Mác đóng một vai trò thụ động ở đây. Ông là người đồng công và tập sự trẻ tuổi. Vì vậy ông không chịu trách nhiệm nặng như Ba-na-ba. Về sau Mác được Đức Chúa Trời phục hồi và lại được đưa vào công tác. Nhưng còn Ba-na-ba thì sao? Ông không trở lại và không còn được nhắc đến nữa. Một vài người có thể hỏi: “Vì anh em kia có thể làm điều ấy, tôi không thể làm như vậy sao? Vì anh em ấy có thể đi đến một địa phương nào đó, tôi không thể đến chính địa phương đó sao?” Anh em phải cẩn thận. Anh em ấy có thể đi theo sự sai phái của Thân Thể, trong khi có thể anh em tự mình ra đi. Đó là điểm khác biệt. Đừng nói: “Nếu Đức Chúa Trời có thể dùng anh ấy, Ngài cũng có thể dùng tôi”. Đức Chúa Trời có thể dùng anh ấy mà không dùng anh em, vì anh ấy được Thân Thể sai đi. Đừng nói Đức Chúa Trời không thể bỏ anh em; Ngài có thể bỏ anh em theo cách Ngài đã bỏ Ba-na-ba. Những gì được ghi lại trong Công vụ các Sứ đồ rất sáng tỏ. Sau biến cố ấy, Thánh Linh không còn nhắc đến Ba-na-ba.
Có thể mọi công tác đều do các cá nhân thực hiện, nhưng tất cả đều được thực hiện trong sự chuyển động của Thân Thể. Đó là trường hợp vào ngày lễ Ngũ Tuần. Công vụ các Sứ đồ 2:14 nói: “Nhưng Phi-e-rơ đứng lên với mười một người, cất tiếng nói với họ”. Từ ngữ “đứng” ở đây là số nhiều, trong khi “cất tiếng” lại là số ít. Mặc dầu một người nói, nhưng mười một người kia đứng phía sau một người ấy. Vì vậy, chúng ta phải thấy trong công tác của mình, chúng ta phải có các anh em đứng sau hỗ trợ.
Chúng ta cần học bài học thuận phục. Không những người được sai đi cần học tập thuận phục, mà người sai đi cũng cần học tập thuận phục. Chỉ ở trong linh thuận phục một người mới nghe được tiếng của Thánh Linh. Chúng ta không thể cho rằng sự đồng lòng nhất trí là tiêu chuẩn cho mọi công tác, mà sự thuận phục phải là tiêu chuẩn. Chúng ta không nên sai phái một anh em ra đi vì chúng ta đồng ý với anh ấy. Mặc dầu nhiều lúc chúng ta không đồng ý với lời đề nghị của một anh em, chúng ta vẫn phải cho anh ấy quyền tự do làm điều đó. Vấn đề không phải là đồng ý hay không đồng ý, mà là thuận phục hay không thuận phục. Thánh Linh chỉ có thể có đường lối chuyển động giữa vòng những người thuận phục
Khi một công tác viên được sai đi, người ấy trở nên sứ đồ. Sứ đồ là một công tác viên được sai đi. Phao-lô là một sứ đồ. Sự khác biệt giữa sứ đồ và trưởng lão là gì? Theo Kinh Thánh, các trưởng lão ở cố định, trong khi các sứ đồ di chuyển. Các trưởng lão được chỉ định cho một địa phương mà thôi, trong khi sứ đồ là vì cả Thân Thể. Phao-lô không bao giờ là trưởng lão; ông chỉ là sứ đồ. Nhưng Phi-e-rơ và Giăng vừa là trưởng lão vừa là sứ đồ. Khi họ ở Giê-ru-sa-lem, họ là trưởng lão tại Giê-ru-sa-lem. Ngoài việc làm trưởng lão tại Giê-ru-sa-lem, họ cũng là các sứ đồ. Vì là các trưởng lão, họ có quyền trông nom chăm sóc. Là các sứ đồ, trách nhiệm của họ giới hạn nơi công tác mà họ được giao phó; họ không có trách nhiệm trông nom chăm sóc. Tôi hi vọng tất cả chúng ta sẽ sáng tỏ. Khi nói đến các trưởng lão, chúng ta muốn nói đến một địa phương. Khi nói đến các sứ đồ, chúng ta muốn nói đến cả trái đất. Một người có thể có hai vị trí cùng một lúc; ấy là một mặt, người ấy mang trách nhiệm trông nom tại một địa phương, mặt khác, người ấy chịu trách nhiệm công tác tại tất cả các địa phương. Chẳng hạn như giữa vòng các anh em, công tác của tôi dành cho tất cả những công tác viên tại tất cả các địa phương, cũng như dành cho những anh em tại Thượng Hải. Tôi chia sẻ trách nhiệm tại Thượng Hải với các anh em tại đó.
II. NHẬN BIẾT NHỮNG CÔNG TÁC VIÊN
Bây giờ chúng ta sẽ xem xét về công tác viên. Làm thế nào chúng ta nhận biết một người có phải là công tác viên hay không?
(1) Công tác viên phải có các ân tứ. Có nhiều loại ân tứ. Truyền giáo là một ân tứ. Nói tiên tri là một ân tứ. Chăn bầy và dạy dỗ cũng là một ân tứ. Các ân tứ khác nhau dành cho các chức năng khác nhau. Ân tứ của người truyền giáo là vì những người chưa tin. Ân tứ của giáo sư là để xác định các giáo lý. Ân tứ của người chăn bầy là để chăn dắt, nuôi dưỡng các tín đồ để họ tăng trưởng mặt thuộc linh, và giúp họ giải quyết những nan đề cá nhân và các vấn đề khác nhau.
Một công tác viên nên có các ân tứ càng nhiều càng tốt, nhưng ít nhất phải có một trong các ân tứ ấy. Làm sao chúng ta biết một người nào đó có ân tứ hay không? Nếu anh có ân tứ, các anh em nhóm họp với anh sẽ làm chứng và xác nhận điều ấy. Vì vậy, trong Thân Thể có sự nhận biết ân tứ. Thân Thể biết. Nếu một người có ân tứ của người truyền giáo, Thân Thể có thể cảm nhận được điều ấy. Nếu người ấy có ân tứ dạy dỗ, thì Thân Thể cũng cảm nhận được. Dầu người ấy không lấy việc giảng dạy làm nghề nghiệp, người ấy vẫn có thể có những ân tứ này và làm công tác mà những công tác viên đang làm. Những công tác viên nên có các ân tứ này, nhưng các ân tứ này không chỉ giới hạn cho những công tác viên mà thôi.
Nhiều người nghĩ rằng nếu họ không thể công tác tại một địa phương, họ có thể đổi sang một địa phương khác và công tác tại đó. Thật ra, không có khả năng công tác tại một địa phương thì không phải là vấn đề địa phương ấy. Nếu ai không thể công tác tại địa phương này, thì người ấy cũng không thể công tác tại địa phương khác. Vấn đề là người ấy có ân tứ hay không. Nếu không có ân tứ thì dầu đi đâu người ấy vẫn không có ân tứ.
(2) Dầu một công tác viên có thể có các ân tứ, nhưng nếu sự sống của người ấy không đúng đắn, người ấy vẫn không thể công tác. Công tác của người ấy không những tùy thuộc vào ân tứ, mà còn tùy thuộc vào ân điển. Không những người ấy phải có ân tứ đầy đủ, mà còn phải có ân điển dồi dào. Kết quả của công tác không những liên quan đến ân tứ của công tác viên, mà cũng liên quan trực tiếp đến sự sống của người ấy. Những công tác viên có lượng ân điển khác nhau sẽ có những kết quả khác nhau trong cùng một công tác. Lượng ân điển của công tác viên sẽ quyết định loại công tác người ấy sản sinh ra. Điều này không có nghĩa là một người không có ân điển không thể đem người khác đến sự cứu rỗi. Có thể người ấy có khả năng đem người khác đến sự cứu rỗi vì người ấy có ân tứ truyền giáo. Nhưng nếu không có sự sống, thì càng công tác, người ấy càng phá đổ. Ngày nay nhiều công tác viên một tay thì đang xây dựng công tác của mình còn một tay thì phá đổ công tác ấy đi vì thiếu sự sống.
Trong Công vụ các Sứ đồ 16:2 tất cả các anh em đều nói tốt về Ti-mô-thê. Kết quả là câu 3 cho chúng ta biết Phao-lô đem Ti-mô-thê đi với ông. Đó là sự xác nhận của các anh em. Ti-mô-thê được các anh em xác nhận không những tại một nơi mà ít nhất là hai nơi. Nếu tình trạng của một người đúng đắn trước mặt Chúa và ân điển đầy đủ, các anh em nhóm họp với người ấy tại cùng địa phương chắc chắn sẽ làm chứng cho. Không những các anh em thuộc linh làm chứng cho người ấy mà cả những người không thuộc linh cũng làm chứng như vậy nữa.
III. MỐI LIÊN HỆ GIỮA NHỮNG CÔNG TÁC VIÊN, CÁC BUỔI NHÓM, VÀ VỊ TRÍ CỦA NHỮNG CÔNG TÁC VIÊN
Theo Kinh Thánh, mỗi một buổi nhóm nên có ba nhóm người. Trước hết có các tín đồ trong Hội thánh . Đó là nhóm người cơ bản trong một buổi nhóm. Ít nhất tại mỗi Hội thánh phải có nhóm người đầu tiên này. Thứ hai là những người phục vụ anh em về phương diện vật chất. Mọi trách nhiệm của họ liên quan đến công việc, chẳng hạn như giúp đỡ các anh chị em làm việc, quản lý việc sắp xếp và những công việc liên quan đến buổi nhóm, v.v... Kinh Thánh gọi họ là các chấp sự, giữa vòng họ một số là anh em, một số là chị em. Thứ ba, ngoài hai nhóm người trên, có một vài anh em chịu trách nhiệm chăm sóc những sinh hoạt chính yếu trong buổi nhóm, chẳng hạn như hướng dẫn trong các buổi nhóm, quyết định, liên lạc thư từ với những người bên ngoài Hội thánh , và chăm sóc các thánh đồ. Kinh Thánh gọi những người này là các trưởng lão.
Một buổi nhóm nên bao gồm cả ba nhóm trên. Trong buổi nhóm ấy không có các công tác viên. Các công tác viên không chiếm một vị trí cao hơn trong Hội thánh . Vì công tác viên không thuộc về một nhóm khác, nên họ phải thuộc về một trong ba nhóm kia. Các công tác viên không trở thành nhóm thứ tư trong buổi nhóm; họ thuộc về một trong ba nhóm kia.
Mối quan hệ giữa ba nhóm người này có thể được minh họa bằng một ví dụ. Giả sử các anh em tại một địa phương nào đó cần xây dựng một phòng nhóm. Khởi đầu, các trưởng lão đề nghị và quyết định. Sau khi vấn đề đã được quyết định, họ sẽ thông báo cho các anh em và phân chia nhiều trách nhiệm khác nhau cho các chấp sự. Đến phiên các chấp sự mời tất cả các anh chị em tham gia công sức. Các công tác viên chỉ có thể làm phần việc của mình. Họ chỉ có thể thực hiện phần công việc của mình chứ không thể điều khiển toàn bộ công việc. Sự khác biệt duy nhất giữa họ với các tín đồ khác là họ mang một gánh nặng hơn một chút. Đó là mối liên hệ giữa các công tác viên và các Hội thánh địa phương.
Vị trí của các công tác viên tương tự với vị trí của các sứ đồ ban đầu. Họ làm công việc của các sứ đồ, nhưng họ không có uy quyền của các sứ đồ. Một mặt, nếu một công tác viên có một nhiệm vụ, gánh nặng hay công tác do Chúa giao phó, Hội thánh nên bày tỏ sự cảm thông trong điều đó và hỗ trợ cho các nỗ lực của người ấy. Chúng ta không thể tìm một ví dụ nào trong Kinh Thánh cho thấy các sứ đồ có gánh nặng và Hội thánh không đồng ý với gánh nặng ấy hay cho thấy công tác ở dưới sự điều động của một Hội thánh . Nếu vậy, công tác của Đức Chúa Trời sẽ bị ngăn trở rất nhiều.
IV. MỐI LIÊN HỆ GIỮA NHỮNG CÔNG TÁC VIÊN TRẺ TUỔI VỚI NHỮNG CÔNG TÁC VIÊN LỚN TUỔI
Mối liên hệ giữa những công tác viên trẻ tuổi và những công tác viên lớn tuổi hơn trong công tác là gì? Theo Kinh Thánh, các công tác viên đến sau phải thuận phục những công tác viên đến trước họ. Người trẻ tuổi phải thuận phục người lớn tuổi. Chẳng hạn như rõ ràng là Phao-lô lãnh đạo Si-la, Ti-mô-thê, Tít và Ô-nê-sim. Những người trẻ tuổi này rõ ràng đã nhận sự lãnh đạo của Phao-lô và thuận phục ông.
Ngày nay trong các giáo phái, có hai tình trạng. Một mặt một số công tác viên hoàn toàn bị những người trên họ điều khiển và tất cả các quyết định đều phát xuất từ ý kiến loài người. Theo một thái cực khác, có những người được mệnh danh là những nhà truyền giảng tự do. Họ đến và đi cách độc lập; họ tự chu cấp cho mình và làm công tác rao giảng. Họ không bị ai ràng buộc hay điều khiển. Tuy nhiên, cả hai đều không biết Chúa. Nhóm thứ nhất đặt uy quyền trong tay người khác; họ không có Chúa lãnh đạo. Nhóm thứ hai giữ uy quyền trong tay mình; họ cũng không có Chúa lãnh đạo. Khi uy quyền được đặt trong tay Chúa, cả hai thái cực này đều bị loại bỏ. Một công tác viên không được để người khác điều khiển mình trong vấn đề tiền bạc và không được trao uy quyền này vào tay người khác.
Công vụ các Sứ đồ chương 8 cho biết Phi-e-rơ và Giăng được Hội thánh sai đi và rao giảng tại Sa-ma-ri. Bước chân của họ được Hội thánh hạn chế. Mỗi một công tác viên là một người bị hạn chế. Nhiều người nghĩ họ không bị ai điều khiển cả. Họ sai lầm khi nghĩ rằng người thuộc linh thì không bị ai hạn chế.
Về vấn đề làm cho những người trẻ tuổi được hoàn hảo, Kinh Thánh không nói đến một chủng viện nào. Mặc dầu một số người tìm cách bắt đầu một trường học cho các tiên tri trong Cựu Ước, trường ấy không đào tạo ra một tiên tri nào. Học tập trong chủng viện không làm cho một người thành ra công tác viên. Việc huấn luyện công tác viên đến từ việc noi gương và thuận phục.
Ti-mô-thê và Si-la đều theo Phao-lô. Trong Kinh Thánh, chúng ta chỉ thấy con đường “tập sự” chứ không thấy con đường “học thuật”. Nếu một công tác viên trẻ tuổi không học bài học vâng phục cách đúng đắn, người ấy sẽ không thể học bài học nào khác. Đó là điều rất quan trọng. Mỗi một công tác viên trẻ tuổi phải trải qua áp lực lớn trong tay Đức Chúa Trời trước khi có thể trở nên hữu dụng. Tất cả những ai được Đức Chúa Trời dùng đều phải trải qua những sự xử lý nghiêm khắc. Qua thư Phao-lô viết cho Ti-mô-thê, chúng ta có thể thấy ông rất nghiêm trong việc dạy dỗ những công tác viên trẻ tuổi. Ông không hề cẩu thả hay lơi lỏng đối với Ti-mô-thê.
V. SỰ RAO GIẢNG CỦA NHỮNG CÔNG TÁC VIÊN TRẺ TUỔI
Nhiều nan đề trong Hội thánh ngày nay phát sinh khi người ta muốn có các ân tứ mà không có được. Họ nghĩ rằng mình có một ân tứ nào đó, nhưng sự thật không phải như vậy. Khi công việc được giao vào tay họ, họ làm hỏng đi. Điều này không có nghĩa là họ không muốn đảm đương công việc cách đúng đắn, mà chỉ có nghĩa là họ không có khả năng đảm đương cách đúng đắn. Người có ân tứ giảng dạy chỉ có thể làm công việc biện biệt các lẽ thật Kinh Thánh, duy trì các lẽ thật này, và khám phá các lẽ thật mới; người ấy không thể làm gì khác. Tương tự như vậy, những ai chỉ có ân tứ truyền giáo chỉ có thể làm công việc truyền giáo; họ không thể thay thế các giáo sư để dạy dỗ và xác định lẽ thật. Họ chỉ có thể làm công tác trong phạm vi giới hạn của mình. Nan đề nằm ở chỗ không ai trên thế giới ngày nay giữ vị trí của mình hay thỏa lòng với vị trí của mình. Các nhà truyền giáo muốn làm giáo sư, trong khi các giáo sư muốn làm nhà truyền giáo. Mọi người đều chiêm ngưỡng những gì mình không có. Khuynh hướng này của con người thiên nhiên là xác thịt. Trong Thân Thể của Đấng Christ, mỗi chi thể có công dụng riêng biệt. Tai không thể thay thế mắt và mắt không thể thay thế tai. Dầu anh em đặt tai vào vị trí của mắt, tai vẫn là tai; nó không thể thấy được. Điều này cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc đứng vững trong vị trí của mình. Mỗi người trong chúng ta phải học đứng trong vị trí riêng của mình.
Những công tác viên trẻ tuổi không những phải thuận phục những công tác viên lớn tuổi cách cá nhân, mà còn phải biết Đức Chúa Trời đặt họ ở đâu. Sau khi đã hiểu vị trí đúng đắn của mình, một người không bị rơi vào tình trạng xác thịt. Bằng cách đó, người ấy sẽ kinh nghiệm sự giải cứu trong công tác mình. Nếu một công tác viên trẻ tuổi thật sự có ân tứ dạy dỗ và những công tác viên lớn tuổi quanh mình không có ân tứ đó, trong tình huống ấy, những người lớn tuổi nên thuận phục người trẻ tuổi và tiếp nhận ân tứ của người ấy. Tuy nhiên, mỗi một công tác viên trẻ tuổi đều luôn luôn có thể thấy một người nào đó trưởng thành hơn và tiến bộ hơn mình, là người mình có thể học tập thuận phục. Luôn luôn có những công tác viên lớn tuổi mà mình có thể thuận phục. Ti-mô-thê được truyền bảo phải suy xét những gì Phao-lô nói (2 Ti. 2:7) và biết “mình đã học những điều ấy với ai” (2 Ti. 3:14). Ti-mô-thê phải đi tìm ra những người mà ông phải học mọi điều từ nơi họ. Ông phải tìm ra những công tác viên đi trước mình.
Một công tác viên trẻ tuổi cũng phải học chấp nhận những sự đối xử vô lý. Người ấy phải học thế nào là thuận phục không lý luận. Mọi sự thuận phục thật đều không lý luận. Một khi có lý luận, đó không phải là sự thuận phục. Trong công tác của Đức Chúa Trời, không ai có thể độc lập và tuyên bố mình không cần thuận phục ai cả. Những người trẻ tuổi phải như vậy và ngay cả những người lớn tuổi cũng không được ngoại lệ vì không ai có thể độc lập. Dầu Đức Chúa Trời dùng một công tác viên nào để khám phá một lẽ thật nào đó, người ấy không thể chuyển động cách độc lập; mà phải đi tới trong sự thuận phục hỗ tương.
VI. ĐỨC TIN CỦA NHỮNG CÔNG TÁC VIÊN
Tất cả những công tác viên đều phải có đức tin chung về công tác của Chúa và thân vị Ngài. Những lẽ thật cơ bản này phải được tất cả chúng ta cùng nhau giữ lấy. Nếu công tác viên nào vi phạm những nguyên tắc tổng quát ấy, các trưởng lão phải ngưng công tác của người đó. Cần phải có sự giải nghĩa đúng đắn, phù hợp với Kinh Thánh liên quan đến những tín lý chính yếu. Mọi người phải giải nghĩa những điều này giống nhau. Nhiều câu Kinh Thánh đã được những người khác giải nghĩa cách đúng đắn rồi. Tất cả những gì chúng ta phải làm là tiếp nhận sự giải nghĩa ấy từ nơi họ; chúng ta không cần thêm gì cả. Một nguyên tắc cơ bản trong việc đọc Kinh Thánh là đơn sơ chấp nhận những gì Lời Đức Chúa Trời nói và không thêm thắt tư tưởng nào của chúng ta vào đó. Khi đọc Kinh Thánh, chúng ta nên hỏi: “Đức Chúa Trời phán điều gì?” thay vì nói: “Tại sao Đức Chúa Trời phán điều này?” Công dân của một quốc gia không cần hỏi tại sao có một luật nào đó. Người ấy chỉ cần hỏi luật của quốc gia đó là gì. Chúng ta nên hỏi “điều gì”, và không nên hỏi “tại sao”. Đối với các mạng lịnh của Đức Chúa Trời, chúng ta không nên có thái độ hiểu biết mà nên có thái độ thuận phục.
Ngày nay do con người có những thái độ khác nhau trước mặt Đức Chúa Trời, mà đã có những sự khác biệt trong việc giải nghĩa Kinh Thánh. Chẳng hạn như trong vấn đề báp-têm, nhiều người vẫn rảy nước. Khi đọc Kinh Thánh, bằng một cách nào đó, họ tìm ra giáo lý rảy nước. Giáo lý của họ là kết quả ra từ cách cư xử của họ. Cách giải nghĩa Kinh Thánh của một người liên quan rất nhiều đến thái độ của người ấy trước mặt Đức Chúa Trời. Nhiều người đến với Lời Đức Chúa Trời vì một mục đích: tìm ra một qui định nào đó để biện minh cho hành vi của mình. Mục tiêu của họ là chuyển Lời Đức Chúa Trời thành một luật nào đó phù hợp với mình. Vì vậy tất cả sự giải nghĩa Kinh Thánh của họ đều vì chính mình. Một người chưa bao giờ trải qua sự xử lý của thập tự giá không thể đọc Kinh Thánh. Chỉ có những ai đã trải qua thập tự giá mới có thể đọc Kinh Thánh cách đúng đắn.
VII. NHU CẦU CỦA NHỮNG CÔNG TÁC VIÊN
Bây giờ chúng ta bàn đến nhu cầu của những công tác viên. Điều đầu tiên chúng ta phải đề cập là việc dâng tiền của các tín đồ. Việc dâng hiến của các tín đồ không chỉ để hỗ trợ cho những công tác viên, mà để cung cấp cho những ai làm việc cho Chúa. Nói cách khác, một người dâng tiền cho một người nào đó không phải vì người ấy là một công tác viên, mà vì người ấy là người làm việc cho Chúa. Cá nhân người ấy là ai là một việc, và người ấy có làm công tác hay không lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Hễ người ấy làm việc cho Chúa, người ấy xứng đáng được chu cấp. Vấn đề không phải người ấy có tiền hay không, mà là người ấy có công tác cho Chúa không. Nếu người ấy công tác cho Chúa, người ấy xứng đáng được hỗ trợ. Người ta trả tiền cho anh đạp xích lô mà không hỏi anh ta giàu hay nghèo. Anh ta giàu hay nghèo không liên quan gì đến việc trả tiền cho anh. Hễ anh ta làm việc, anh ta đáng được tiền công. Một người không thể nói vì một công tác viên có tiền, nên người ấy không cần được hỗ trợ. Một lần kia có người định gửi tiền cho ông Bright, một đồng công của Tiến sĩ Scofield. Nhưng người bên cạnh nói rằng Chúa sẽ lo cho các nhu cầu của ông Bright. Vì vậy người ấy giữ tiền lại, và ông Bright ra đi không được hỗ trợ. Các tín đồ không nên dâng tiền chỉ vì những công tác viên nghèo thiếu. Nếu họ dâng vì những công tác viên nghèo thiếu, họ không đang dâng hiến mà đang bố thí.
Dâng hiến là điều tối thiểu một người được cứu có thể làm. Nếu người được cứu không dâng chính mình, người ấy là kẻ vô dụng trước mặt Đức Chúa Trời. Nếu một người đã nhận được ân điển, thì nên đưa đến kết quả là người ấy dâng mọi sự mình có cho Chúa. Một người nhận được ân điển mà không bằng lòng dâng mọi sự mình có cho Chúa là điều bất thường. Tất cả những ai có tấm lòng được Đức Chúa Trời chạm đến sẽ dâng hết túi tiền của mình. Không thể có người nào lòng được Đức Chúa Trời chạm đến mà của cải không được Ngài đụng đến. Sự dâng mình cho phép Đức Chúa Trời đụng đến mọi sự. Chỉ sau khi Đức Chúa Trời chạm đến một người, tình yêu mới tuôn chảy ra từ người ấy. Nếu một người chưa bao giờ dâng chính mình, tình yêu chắc chắn sẽ không tuôn chảy ra từ người ấy.
Ngày nay trên thế giới này chỉ có hai vị thần. Thứ nhất là ma-môn, và thứ hai là Đức Chúa Trời chân thật. Nếu không yêu Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ yêu ma-môn. Chỉ khi nào một người yêu Đức Chúa Trời, tấm lòng người ấy mới được mở rộng. Điều mở rộng lòng người ta hơn hết là sự ban cho tiền của. Một tín đồ giữa vòng chúng ta đã tham dự các buổi nhóm của một giáo phái nọ suốt hai mươi năm nhưng chưa bao giờ gật đầu chào một người nào. Về sau anh dâng chính mình và toàn thể con người anh thay đổi. Trước đây tôi ngại thuật cho người khác biết tình trạng tài chính của chúng ta. Nhưng ngày nay tôi đã thay đổi. Đó là cách để người khác nhận được ân điển. Càng dâng hiến nhiều chừng nào, một người càng đầy dẫy ân điển chừng nấy. Những lời này dành cho cả Thân Thể.
Bây giờ chúng ta hãy xem xét cách phân phát tiền của dâng hiến. Một phần tiền nhận được trong các buổi nhóm nên để riêng cho những công tác viên tại địa phương và những công tác viên tại các địa phương khác. Đó là dấu hiệu của sự tương giao. Phao-lô khen ngợi tín đồ Phi-líp về ân điển của họ trong vấn đề này (Phil. 4). Họ tiếp tục tương giao với các sứ đồ trong vấn đề tiền bạc. Tình trạng của người Cô-rin-tô thì khác hẳn; họ gây nên nan đề trong sự tương giao với Phao-lô. Kết quả là Phao-lô bằng lòng để cho các Hội thánh khác chịu đựng, hơn là hỏi đến tiền bạc của người Cô-rin-tô. Ông không dùng tiền của người Cô-rin-tô vì có nan đề trong sự tương giao. Chỉ khi nào có sự tương giao mới có thể có sự dâng hiến của cải vật chất.
Tạ ơn Chúa vì các anh em tại Thượng Hải đã nhận được ân điển trong điều này. Những công tác viên tại các thành phố khác không nên hiểu lầm và nghĩ rằng Hội thánh tại Thượng Hải giàu có đến nỗi có thể tiếp tục gửi tiền ra ngoài địa phương. Lý do Hội thánh tại Thượng Hải có thể gửi tiền đi là vì các công tác viên tại địa phương chỉ nhận một ít sự hỗ trợ từ địa phương mà thôi. Do đó, Hội thánh có thể gửi tiền đi nhiều như vậy. Đó là ân điển của Hội thánh tại Thượng Hải.
Tiền dâng cho các cá nhân nên được người dâng hiến bỏ vào phong bì cách riêng tư, ghi tên của công tác viên, và bỏ vào hộp tiền dâng. Các anh em mở hộp sau đó sẽ trực tiếp đưa riêng số tiền này cho người nhận.
VIII. CÁCH QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CỦA NHỮNG CÔNG TÁC VIÊN
Trước hết những công tác viên không nên gây cho người khác có cảm tưởng mình nghèo. Công tác viên sống bởi đức tin, không phải sống nhờ của bố thí. Thật xấu hổ khi để cho người khác biết mình nghèo với hi vọng được hỗ trợ. Khi công tác viên nhận được sự tài trợ từ các anh em, người ấy nên có thái độ đúng đắn. Khi nhận tiền nơi anh em, người ấy thay mặt Đức Chúa Trời nhận số tiền ấy. Người ấy đứng về phía Đức Chúa Trời và đại diện Đức Chúa Trời. Vì vậy, người ấy không nên có thái độ của một người ăn xin. Khi Phao-lô đề cập đến vấn đề tiền bạc, ông làm cho người khác có một ấn tượng tôn trọng và kính trọng ông. Đó là thái độ đúng đắn mà tất cả những công tác viên nên có.
Thứ hai, khi một công tác viên nhận được nhiều hơn những công tác viên khác, người ấy nên phân phát phần trội hơn ấy cho những công tác viên khác. Đừng ngại khi làm như vậy những người khác sẽ hiểu lầm và nghĩ rằng anh em giàu có hay đã tình cờ tìm được kho tàng. Hơn nữa, vì nhu cầu của gia đình riêng, thỉnh thoảng cần phải có ngân khoản để dành ngắn hạn. Điều này phù hợp với Kinh Thánh. Sách Châm-ngôn có dạy như vậy.
Thứ ba, cần phải có kế hoạch về cách sử dụng tiền bạc. Nhiều người mua những món vô dụng khi có tiền. Thái độ này sẽ chận đứng nguồn cung cấp của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải lập kế hoạch chi tiêu. Chúng ta phải có ngân sách và cẩn thận cân nhắc trước mặt Đức Chúa Trời những gì mình nên mua và những gì mình không nên mua, không nên mua cách cẩu thả và phung phí tiền bạc.
Thứ tư, công tác viên đừng bao giờ mượn tiền. Người làm công tác cho Đức Chúa Trời thà chịu chết còn hơn mượn tiền của người khác. Nếu không có đức tin rằng Chúa sẽ chăm sóc đời sống mình, thì người ấy nên tìm một việc làm để duy trì cuộc sống. Nếu có đức tin Đức Chúa Trời sẽ nâng đỡ mình, thì người ấy không nên đưa tay ra hướng về người khác.
IX. NGUYÊN TẮC MA-NA
Ngày nay Đức Chúa Trời ao ước chúng ta bước đi theo nguyên tắc ma-na. Nguyên tắc ma-na là: “Ai thâu nhiều cũng không dư, và ai thâu ít cũng không thiếu” (2 Cô. 8:15). [Nguyên tắc] đó không chỉ được ghi lại trong Cựu Ước. Tân Ước cũng nói với chúng ta như vậy. Dư thừa và thiếu thốn đều sai lầm. Nếu một anh em tại một địa phương không thể xoay sở để sống và không cách nào lo cho cuộc sống mình, thì Hội thánh hoặc cá nhân các tín đồ nên giúp đỡ anh em ấy. Hội thánh không thể ngồi yên và không làm gì giúp anh em thất nghiệp ấy; Hội thánh cần hết sức cố gắng giúp đỡ họ. Dĩ nhiên ở đây chúng ta không nói đến những người không muốn làm việc. Chúng ta không thể giúp những ai không muốn làm việc. Chúng ta chỉ có thể giúp những ai muốn làm việc. Hơn nữa, nếu thu nhập của một anh em không đủ lo cho cuộc sống mình, Hội thánh lại phải can thiệp để giúp đỡ. Đối với những ai có lợi tức quá thấp cũng vậy. Đó là việc các sứ đồ đã làm trong Hội thánh đầu tiên.
Thứ tự giúp đỡ là quan tâm đến các anh chị em trong địa phương của mình trước, rồi sau đó giúp đỡ người nghèo bên ngoài. Nếu các tín đồ có người thân thiếu thốn, họ nên lo cho nhu cầu của chính họ hàng mình trước, rồi mới lo cho nhu cầu của những người khác.
Không ai nên dâng hiến mà trước nhất không suy xét cẩn thận. Người lơi lỏng cách thiên nhiên sẽ không nhận được phước hạnh của Chúa qua việc dâng hiến quá nhiều, vì người lơi lỏng trong vấn đề tiền bạc của mình chắc chắn sẽ lơi lỏng trong những điều thuộc về Chúa. Chúng ta phải học tập làm một người dâng mình trước mặt Chúa, chứ không phải một người lơi lỏng.
Đối với một tín đồ, dâng hiến không chỉ đơn giản là dâng tiền. Chúng ta phải có đời sống đúng đắn trước mặt Đức Chúa Trời thì sự dâng hiến của mình mới được Ngài ban phước. Thư thứ ba của Giăng nói rằng các thánh đồ hỗ trợ cho những công tác viên cần có đời sống xứng đáng với Đức Chúa Trời và đời sống tin kính. Người dâng phải sống đời sống xứng đáng với Đức Chúa Trời. Tạ ơn Chúa không phải ai cũng là La-xa-rơ và không phải ai cũng là người giàu. Đức Chúa Trời không cần La-xa-rơ, Ngài cũng không cần người giàu. Ngài chỉ cần sự dâng hiến của những ai có đời sống xứng đáng với Ngài. Mặc dầu La-xa-rơ không có tiền, ông vẫn được cứu; ông vẫn nhận được ân điển và sống một đời sống xứng đáng với Đức Chúa Trời. Xác thịt có hai tội trước mặt Đức Chúa Trời. Một là đối xử khắc nghiệt với thân thể, được đề cập đến trong Cô-lô-se chương 2. Hai là sống buông lung trong cảnh an nhàn sung túc. Đức Chúa Trời không định là chúng ta phải đối xử khắc nghiệt với thân thể mình, Ngài cũng không muốn chúng ta sống quá tiện nghi. Ngài muốn chúng ta sống một đời sống xứng đáng với Ngài. Mọi số tiền dư thừa nên đem cho đi càng sớm càng tốt.
X. THƯ GIỚI THIỆU
Điều cuối cùng tôi xin đề cập đến là thư giới thiệu. Phao-lô nói về điều này với người Cô-rin-tô. Điều ấy được tìm thấy trong Tân Ước. Khi một tín đồ bình thường đến một địa phương khác, người ấy nên có thư giới thiệu. Trong Thư-tín của mình, Phao-lô nói chính ông không cần thư giới thiệu. Đó là vì Phao-lô đã xây dựng một mối liên hệ với người Cô-rin-tô. Ấy là lý do vì sao ông là trường hợp ngoại lệ. Đối với những anh chị em khác, vẫn cần phải có thư giới thiệu. Thư giới thiệu có hai công dụng. Trước hết, thư này giúp cho người khác biết anh em. Thứ hai, thư này ngăn cản những anh em giả xen vào. Mỗi thư giới thiệu cần có hai hay ba người làm chứng trước khi được chấp nhận. Thường thường thư giới thiệu do các trưởng lão tại địa phương hay những người trách nhiệm viết. Có ba loại thư:
Thư giới thiệu một anh em đến bàn của Chúa, chứng thực một người là anh em trong Chúa. Chính yếu dành cho những anh em vẫn còn trong các giáo phái.
Thư giới thiệu một anh em đã bỏ giáo phái và đang đi trên đường lối giống như chúng ta.
Ngoài những người đi đường lối này, những người có các ân tứ đặc biệt, có thể được mời giảng dạy.
Sau khi nhận được thư giới thiệu, những người trách nhiệm tại địa phương nên gửi thư trả lời cho địa phương đã giới thiệu, xác nhận mình đã nhận được thư giới thiệu. Những thư giới thiệu và thư trả lời ấy nên được chuẩn bị trước và in theo mẫu đúng tiêu chuẩn, để tiện sử dụng. Mỗi khi một anh em từ địa phương khác đến, anh ấy cần trao cho chúng ta một thư giới thiệu để chúng ta có thể nhận anh vào bàn của Chúa. Tương tự như vậy, chúng ta sẽ cấp cho những ai từ nơi chúng ta ra đi một thư giới thiệu. Tôi hi vọng trong tương lai tất cả chúng ta sẽ chú ý đến điều này.