Thông tin sách

Những Người Đắc Thắng Của Đức Chúa Trời

Tác giả: Watchman Nee
Dịch từ bản tiếng Anh: God's Overcomers
ISBN: 0-7363-0433-9
Mua sách tại:

Đang đọc: Chương 7

Untitled Document

CHƯƠNG BẢY

CHÚNG TA LÀ GÌ?

(Dưới đây là một bài giảng do anh Watchman Nee chia sẻ tại Thượng Hải vào tháng giêng năm 1934, trong kỳ Hội Đồng Người Đắc Thắng lần thứ ba. Bài này được dịch từ bản ghi chép của anh K. H. Weigh).

Kinh Thánh: Gi. 1:22; 2 Phi. 1:12

Hôm nay chúng ta sẽ xem xét một câu hỏi: chúng ta là gì? Chúng ta đang làm gì ở đây? Trong quá khứ chúng tôi không đề cập nhiều đến vấn đề này vì đây là điều hơi khó nói. Vì lý do ấy, chúng ta hơi do dự khi nói về chính mình. Tuy nhiên, dầu chúng ta chưa đề cập đến vấn đề này, những người khác vẫn thường hỏi chúng ta: “Các anh là gì?” Một số người thậm chí còn nói chúng ta là Hội thánh  Phục Hưng, hay Hội thánh  Bầy Nhỏ, hay Hội thánh  Cơ Đốc nhân [Ghi chú của chủ bút: Watchman Nee xuất bản tạp chí Cơ Đốc nhân]Vì vậy, chúng tôi muốn nói vài lời về vấn đề này.

Trước hết, chúng ta phải làm sáng tỏ rằng mình không phải là một điều gì cả. Chúng ta không phải là một giáo phái mới. Chúng ta cũng không phải là một hệ phái mới, một phong trào mới hay một tổ chức mới. Chúng ta không ở đây để gia nhập một phe phái nào đó hay thành lập hệ phái riêng của mình. Nếu không có sự kêu gọi và ủy nhiệm đặc biệt từ Đức Chúa Trời, chúng ta không cần phải tồn tại cách độc lập. Lý do chúng ta ở đây là vì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một sự kêu gọi đặc biệt.

ĐƯỢC VỮNG LẬP TRONG LẼ THẬT HIỆN TẠI

2 Phi-e-rơ 1:12 nói đến các từ ngữ “được vững lập trong lẽ thật hiện tại”. “Lẽ thật hiện tại” cũng có thể dịch là “lẽ thật cập nhật hóa”. Lẽ thật cập nhật hóa nghĩa là gì? Thật ra mọi lẽ thật đều ở trong Kinh Thánh; không một lẽ thật nào không ở trong Kinh Thánh. Mặc dầu tất cả đều ở trong Kinh Thánh, nhưng do sự thiếu hiểu biết, bất trung, thờ ơ và bất phục của con người, nhiều lẽ thật bị mất và giấu kín khỏi con người. Các lẽ thật có đó, nhưng con người không nhìn thấy hay chạm đến được. Mãi cho đến khi thời kỳ được trọn, Đức Chúa Trời mới giải phóng các lẽ thật trong những giai đoạn cụ thể và làm cho các lẽ thật ấy một lần nữa được khải thị.

Những lẽ thật được khải thị cách tươi mới này không phải là những phát kiến mới của Đức Chúa Trời. Trái lại, đó là những khám phá mới của con người. Không cần phát minh, nhưng cần khám phá. Trong các thế hệ trước Đức Chúa Trời đã khải thị những lẽ thật khác nhau. Trải qua những thời kỳ nào đó, Ngài đã làm cho con người khám phá những lẽ thật cụ thể đó. Chúng ta có thể thấy điều ấy cách rõ ràng qua lịch sử Hội thánh .

Chẳng hạn như việc Martin Luther dấy lên vào thế kỷ mười sáu. Đức Chúa Trời đã mở mắt ông nhìn thấy vấn đề xưng công chính bởi đức tin. Ông là chiếc bình được Đức Chúa Trời dấy lên để mở ra lẽ thật về sự xưng công chính bởi đức tin. Điều này không có nghĩa là trước Luther không có sự xưng công chính bởi đức tin. Sự thật vẫn đã hiện hữu trước thời Luther. Luther chỉ là người nhận thức lẽ thật một cách mạnh mẽ; ông đặc biệt xuất sắc về lẽ thật này. Vì lý do ấy, lẽ thật này trở nên “lẽ thật hiện tại” vào thời đại ấy.

Mỗi một người phục vụ Chúa nên cầu hỏi trước mặt Đức Chúa Trời về lẽ thật hiện tại là gì. Chúng ta cần hỏi: “Lạy Đức Chúa Trời, lẽ thật hiện tại là gì?” Mặc dầu có nhiều lẽ thật chính yếu và quan trọng trong Kinh Thánh, điều chúng ta cần biết là lẽ thật hiện tại của Đức Chúa Trời. Không những chúng ta cần biết các lẽ thật tổng quát, mà cũng phải sáng tỏ về lẽ thật hiện tại của Đức Chúa Trời.

LẼ THẬT ĐƯỢC KHÔI PHỤC TRONG THẾ KỶ MƯỜI SÁU

Từ thế kỷ mười sáu trở đi, Đức Chúa Trời đã khôi phục những lẽ thật khác nhau. Thế kỷ mười sáu là thời đại của sự Cải Chánh. Đó là thời điểm có sự thay đổi vô cùng lớn lao trong tôn giáo. Điều này không có nghĩa là trước thế kỷ mười sáu không có sự khôi phục. Đã có những sự khôi phục trước thời điểm ấy. Tuy nhiên từ thế kỷ mười sáu trở đi, có những sự khôi phục quan trọng. Chúng ta phải xem lịch sử từ thời Cải Chánh là gồm bốn giai đoạn. Giai đoạn một là giai đoạn Cải Chánh. Giai đoạn hai là thời kỳ ngay sau cuộc Cải Chánh, từ thế kỷ mười sáu đến thế kỷ mười tám. Giai đoạn ba là thế kỷ mười chín, và giai đoạn sau cùng là thế kỷ hai mươi hiện nay.

Trước hết chúng ta hãy xem xét cuộc Cải Chánh của Luther. Khi Luther được Đức Chúa Trời dấy lên, ông thấy ánh sáng và đề nghị người ta trở lại với lẽ thật trong sách La Mã. Ngày nay nhiều người đánh giá công tác của Luther từ góc cạnh chính trị và cho rằng đó là một phong trào chính trị. Tuy nhiên, sau khi đọc nhật ký, các bài viết và các sách của Luther, tôi thấy động cơ và mục tiêu của ông đúng đắn. Việc tốt nhất của ông là khôi phục lẽ thật xưng công chính bởi đức tin. Đó là sự khôi phục đặc biệt của Luther. Dĩ nhiên Đức Chúa Trời không khôi phục tất cả các lẽ thật qua Luther. Luther chỉ khôi phục lẽ thật về sự xưng công chính bởi đức tin. Ông không thực hiện một sự thay đổi trọn vẹn về Hội thánh . Chẳng hạn như ông vẫn thừa nhận Hội thánh  quốc gia và tán thành việc Hội thánh  là một phần của quốc gia. Ông không nhận được ánh sáng về điểm này. Vì lý do ấy, không bao lâu, giáo phái Lutheran trở nên quốc giáo của nước Đức. Chính Luther từng nói Hội thánh  không nên bị chính phủ điều khiển. Tuy nhiên ông xem các vấn đề quản trị là có tính cách chuyển tiếp, tạm thời và thuộc về sân ngoài, chứ không phải là những vấn đề thuộc về nơi thánh. Vì vậy ông không triệt để trong vấn đề ấy. Đức Chúa Trời cho phép vấn đề sự quản trị Hội thánh  không được giải quyết vào thời Luther. Mặc dầu vấn đề này không được khôi phục cách thành công, lẽ thật về sự xưng công chính bởi đức tin đã được khôi phục cách dứt khoát. Đức Chúa Trời đã khai quật lẽ thật bị chôn vùi này ra khỏi mọi truyền thống, ý kiến loài người, các giáo điều, và làm cho lẽ thật này được biết đến và được rao giảng một lần nữa. Những gì một người sinh vào thời ấy nên làm là rao giảng lẽ thật này và khuyên lơn những người khác về lẽ thật này. Nếu không làm như vậy, người ấy không được kể là người hầu việc Đức Chúa Trời trung tín vào thời đại ấy.

SỰ KHÔI PHỤC LẼ THẬT TỪ THẾ KỶ MƯỜI SÁU ĐẾN THẾ KỶ MƯỜI TÁM

Sau đó chúng ta đến giai đoạn từ thế kỷ mười sáu đến thế kỷ mười tám. Vào năm 1524, những người A-na-báp-tít được dấy lên tại Đức; họ là nhóm tín đồ đề nghị làm báp-têm lại sau việc rảy nước rửa tội cho trẻ sơ sinh. Họ là những người theo các anh em thời đầu tiên tại Lhota, là những người rao giảng báp-têm của tín đồ. Trước thời này, Giáo Hội Công Giáo La Mã cũng như Giáo Hội Lutheran đều rảy nước cho trẻ sơ sinh. Những người A-na-báp-tít này không những rao giảng lẽ thật về sự xưng công chính bởi đức tin, mà còn tiến xa hơn trong việc báp-têm các tín đồ là những người đã được xưng công chính bởi đức tin. Sau khi Anh Quốc Giáo được thành lập tại nước Anh, các tín đồ này nói với những người khác rằng Hội thánh  không nên liên hệ đến chính trị. Vì lý do ấy họ bị bắt bớ và lưu đày.

Mười hai năm sau, tức vào năm 1536, John Calvin được Đức Chúa Trời dấy lên. Ông là một trong những chiếc bình vĩ đại nhất của Đức Chúa Trời trong thời đại ấy. Sau khi được dấy lên, ông đối diện với sự bắt bớ ở khắp nơi, trước hết tại Thụy Sĩ và sau đó ở Đức. Bất cứ đi đến nơi nào, ông đều gặp bắt bớ và tù đày. Cuối cùng tại Tô-cách-lan, ông có một bước khởi đầu mới và thiết lập Giáo Hội Trưởng Lão Tô-cách-lan.

Giai đoạn từ cuối thế kỷ mười sáu đến đầu thế kỷ mười bảy là thời điểm Anh Quốc Giáo được thành lập tại Anh. Đó là bước đầu của Hội thánh  quốc gia tại Anh. Mặc dầu tự cứu mình khỏi ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo La-mã, Anh Quốc Giáo thấy mình lại liên kết với chính trị Anh Quốc. Vì lý do ấy, có những người bất đồng ý kiến dấy lên tại Anh. Họ chống đối tôn giáo quốc gia và có những ý kiến khác với những người thuộc về tôn giáo quốc gia. Họ nói Hội thánh  không nên ở dưới quyền điều khiển của chính phủ, và Hội thánh  và chính phủ phải có sự phân rẽ rõ ràng. Mặc dầu những người bất đồng ý kiến này dạn dĩ nêu ra những lỗi lầm của Hội thánh  quốc gia, nhưng chính họ không hoàn toàn trở về với sự dạy dỗ của Tân Ước. Đó là những điều đã xảy ra tại Anh.

Vào thời gian ấy tại Đức, Đức Chúa Trời dấy lên Philipp Jakob Spener. Ông trở thành mục sư tại một nhà thờ Lutheran ở Frankfurt vào năm 1670. Vào thời đó giáo phái Lutheran đã rơi vào tình trạng tôn giáo hình thức. Qua việc đọc Kinh Thánh, Spener thấy Hội thánh  thời mình đầy dẫy ý kiến con người, là điều Đức Chúa Trời cấm đoán. Ông thấy các tín đồ phải trở về với sự dạy dỗ của Tân Ước. Vì lý do ấy ông bắt đầu hướng dẫn những người khác thực hành 1 Cô-rin-tô chương 14. Trong những buổi nhóm của mình ông bắt đầu dạy những người khác từ bỏ các nghi thức truyền thống và đi theo sự hướng dẫn của Thánh Linh. Tiếc thay sự thực hành của ông không kéo dài được lâu.

Đến năm 1732 tập thể giáo sĩ đầu tiên trên thế giới đã được thai nghén, gọi là Các Anh Em Moravian. Từ ngữ Moravian bắt nguồn từ một địa danh là Moravia. Họ là nhóm anh em đầu tiên đi khắp thế giới để truyền giáo. Tám mươi lăm trong số một trăm người giữa vòng họ cuối cùng đã trở thành các giáo sĩ hải ngoại. Người ta truy tìm khởi nguyên của họ là từ một anh em tên là Christian David. Anh được tái sinh vào năm hai mươi hai tuổi. Trước khi được cứu, anh đã đi khắp nơi để tìm lẽ thật về sự cứu rỗi nhưng không được gì. Một ngày kia anh tìm thấy con đường cứu rỗi. Sau khi được cứu, anh trở về quê nhà và bắt đầu dạn dĩ rao giảng lẽ thật này. Đức Chúa Trời làm một công việc vĩ đại qua anh. Qua cuộc phục hưng này, bắt bớ nổi lên, anh bị đuổi khỏi quê hương và đến ở tại Saxony. Tại đó anh gặp Bá Tước Zinzendorf. Lúc ấy, Bá Tước này chỉ mới hai mươi hai tuổi và là một thành viên của giới quí tộc trong một vương quốc nhỏ bé. Do sự bắt bớ tại Moravia, các anh em chạy trốn khỏi quê hương của họ và được Zinzendorf tiếp nhận tại lãnh thổ của mình. Tại đó họ bắt đầu [gây dựng] giáo hội Moravian. Cư ngụ giữa những ngọn đồi nhỏ bé của Saxony, họ bắt đầu xây dựng quê hương. Dần dần nhiều Cơ Đốc nhân khác cũng di trú đến đó từ những nơi họ bị bắt bớ.

Giữa vòng những người di trú này có một người da đen đến từ Tây Ấn, tên là Anthony. Sau khi đến gặp các anh em, anh thảo luận với họ tình trạng tại Tây Ấn. Một số anh em cảm thấy cần phải đi giảng phúc âm tại đó. Qua việc bốc thăm, họ chọn ra một vài người hầu việc Chúa cùng đi truyền giáo với Anthony. Đó là hoạt động truyền giáo hải ngoại đầu tiên, vào khoảng năm 1732. Từ đó về sau, các giáo sĩ được sản sinh từ giữa vòng họ, và Giáo hội Moravian trở thành tập thể truyền giáo mạnh mẽ nhất vào thời ấy. Các tín đồ của họ lan tràn khắp đất.

Cũng vào khoảng thời gian ấy có một khám phá mới trong Giáo Hội Công Giáo, ấy là có một nhóm người thuộc linh được Chúa dấy lên. Người thuộc linh nhất giữa vòng họ là Miguel de Molinos, ra đời năm 1640 và qua đời năm 1697. Ông viết một quyển sách gọi là Chỉ Nam Thuộc Linh dạy người ta con đường từ chối chính mình và đồng chết với Chúa. Quyển sách này ảnh hưởng nhiều người vào thời ấy. Một trong những người đồng thời với ông là Madame Guyon. Bà ra đời năm 1648 và qua đời năm 1717. Thậm chí bà còn am hiểu nhiều hơn về những vấn đề hiệp nhất với ý muốn Chúa và từ chối bản ngã. Tiểu sử của bà là một quyển sách thuộc linh rất tốt.

Ngoài ra còn có Fenelon là một giám mục thời ấy. Ông rất muốn chịu khổ vì Chúa và ông cùng làm việc với Madame Guyon. Qua những người nam người nữ này, Đức Chúa Trời tuôn đổ nhiều sứ điệp thuộc linh. Vào thời ấy những người nam người nữ với những kinh nghiệm về đời sống thuộc linh sâu xa nhất được tìm thấy trong Giáo Hội Công Giáo. Cải Chánh Giáo chỉ chú ý đến vấn đề xưng công chính bởi đức tin.

Cùng với ba người này còn có Gottfried Arnold. Ông viết nhiều sách về những vấn đề Hội thánh . Ông cho rằng Hội thánh  thời ấy đã lạc khỏi lẽ thật và phải trở về với nền tảng đúng đắn như đã được khải thị trong Tân Ước rồi mới có thể xây dựng được. Ở đây chúng ta thấy hai dòng chảy. Một đến từ những tín đồ như Molinos, Madame Guyon, và Fenelon. Dòng chảy kia đến từ những con người tiêu biểu như Arnold. Trong tờ báo của chúng ta, là tạp chí Chứng Cớ Hiện Tại, chúng ta đã đăng tải “Dòng Chảy Của Linh” của Madame Guyon. Qua những bài viết của bà, người ta có thể thấy bà thật là một người rất thuộc linh. Về Arnold, ông đã khôi phục hầu hết những vấn đề bề ngoài. Ông đề nghị các Cơ Đốc nhân hãy trở về với nền tảng Kinh Thánh của Tân Ước.

Hai dòng chảy này cuối cùng đã nhập làm một. Vào năm 1700 Hội thánh  tại “Phi-la-đen-phi” được dấy lên. Phi-la-đen-phi có nghĩa là tình yêu anh em. Vào thời ấy, khi đọc Khải Thị chương 2 và 3, người ta nhận biết Cải Chánh Giáo đã thật sự ra khỏi Công Giáo. Tuy nhiên, kết quả chỉ là Hội thánh  tại Sạt-đe; chưa có một sự khôi phục trọn vẹn.

Không giống như những tổ chức khác, khi những nhóm như vậy dấy lên, họ không kêu gọi người ta ra khỏi các tổ chức ban đầu. Họ không nhấn mạnh rằng những người khác phải ra khỏi giáo phái của mình. Trái lại, họ chỉ tổ chức những buổi nhóm khắp nơi. Từ năm 1670 trở đi, chứng cớ của họ được tìm thấy tại Anh. Tại Leeds, Bradford, và những nơi khác, các buổi nhóm của họ lần lượt được dấy lên. Họ là những chứng nhân mạnh mẽ nhất vào thế kỷ mười tám. Trong khi Zinzendorf còn sống, ông từng cố gắng hòa nhập phong trào này vào Giáo Hội Moravian. Tuy nhiên, ông không thành công.

Đầu thế kỷ mười tám, một cuộc phục hưng vĩ đại bùng nổ tại Anh. Vào năm 1729 hai anh em Wesley được Đức Chúa Trời dấy lên. Họ được gọi là những người Giám Lý. Qua họ, Đức Chúa Trời đem lại một cơn thủy triều phục hưng vĩ đại. Đó là bước đầu của giáo hội Giám Lý. Các anh em Wesley là những nhân vật chính yếu của thế kỷ mười tám. Trước khi được cứu, John Wesley nỗ lực để trở nên tốt lành. Về sau ông đến Mỹ làm giáo sĩ. Lúc ấy ông chưa được cứu. Ông làm chứng rằng mặc dầu đã nghe lẽ thật xưng công chính bởi đức tin, ông không thể hiểu được. Về sau một anh em Moravian giúp đỡ ông và nói rằng: “Hãy cứ giảng cho người khác về sự xưng công chính bởi đức tin cho đến khi chính ông biết chắc mình được xưng công chính bởi đức tin”. Ít lâu sau đó, ông được cứu. Sau khi được cứu, hai anh em liền bắt đầu giảng sứ điệp này khắp nơi. Vào thời ấy người ta không được phép giảng dạy ngoài trời mà chỉ được giảng tại thánh đường vì giáo hội vào thời ấy cho rằng Lời thánh chỉ được công bố tại thánh đường mà thôi. Tuy nhiên hai anh em này cùng với George Whitefield bắt đầu tổ chức những buổi nhóm ngoài trời và đem người ta đến với Chúa theo cách ấy. Đề tài chính của các sứ điệp John Wesley giảng là giáo lý về sự thánh hóa. Sự giảng dạy về việc tiêu trừ tội lỗi bắt đầu từ ông, mặc dầu ông cũng nói với những người khác rằng sự thánh hóa đến bởi đức tin.

Sau khi Wesley qua đời, phong trào truyền giáo hải ngoại bắt đầu. Tổ chức đầu tiên được thiết lập là Hội Truyền Giáo Luân Đôn. Tổ chức này bắt đầu là một hội phi giáo phái nhưng về sau ở dưới sự hướng dẫn của những người thuộc giáo đoàn độc lập. Trước năm 1799 Hội Truyền Giáo Của Hội thánh  (C.M.S) thuộc về Anh Quốc Giáo được thành lập. Những người thuộc Hội Giám Lý cũng mở rộng phạm vi hội truyền giáo của họ và trở nên Hội Truyền Giáo Giám Lý ngày nay.

Tóm lại, những sự cải cách của thế kỷ mười sáu lan rộng, trong khi những sự cải cách của thế kỷ mười tám thì không. Những sự cải cách của thế kỷ mười sáu ảnh hưởng thế giới không những về mặt thuộc linh, mà còn về mặt chính trị và xã hội. Những sự cải cách của thế kỷ mười tám chỉ ảnh hưởng chính yếu về mặt thuộc linh mà thôi. Trong số tất cả những phong trào của thế kỷ mười tám, điều đáng lưu ý nhất là lời chứng của Hội thánh  “Phi-la-đen-phi”. Họ hấp thụ tất cả những sự khôi phục chính yếu trước đó. Giữa vòng họ, người ta có thể tìm thấy tất cả những lẽ thật chính yếu.

SỰ KHÁM PHÁ LẼ THẬT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VÀO THẾ KỶ MƯỜI CHÍN

Bây giờ chúng ta hãy xem xét thế kỷ mười chín. Thế kỷ này đã chứng kiến một cuộc phục hưng trọn vẹn. Trước hết chúng ta sẽ xem xét John Nelson Darby và cuộc phục hưng mà ông là đại diện.

Vào năm 1827, một nhóm người được dấy lên tại Dublin, Ái-nhĩ-lan. Giữa vòng họ có những người như Edward Cronin và Anthony Norris Groves. Họ thấy trong Hội thánh  có nhiều điều chết chóc, không có sức sống, và hình thức. Họ bắt đầu xin Chúa bày tỏ cho họ Hội thánh  theo sự khải thị của Kinh Thánh. Qua việc cầu nguyện và tương giao, họ cảm thấy họ nên chỗi dậy và nhóm họp theo nguyên tắc 1 Cô-rin-tô chương 14. Kết quả là họ bắt đầu bẻ bánh tại nhà một anh em. Ít lâu sau, một người trước đó làm mục sư Anh Quốc Giáo, John Nelson Darby, bắt đầu gia nhập buổi nhóm của họ và giảng giải Kinh Thánh giữa vòng họ. Dần dần, có thêm những nhà giải nghĩa Kinh Thánh được dấy lên giữa vòng họ, chẳng hạn như William Kelly, C. H. Mackintosh, B. W. Newton, và J. G. Bellett. Nhờ đọc các sách của họ, tôi nhận được ánh sáng để thấy lỗi lầm của các tổ chức giáo phái và nhận biết rằng chỉ có một Thân Thể của Đấng Christ. Hội thánh  không được thành lập do ý kiến của con người, mà phải ở dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Thánh Linh. Khi xem xét các tổ chức Hội thánh  ngày nay, chúng ta thấy có nhiều truyền thống và ý kiến con người, mà ít có sự dẫn dắt trực tiếp của Thánh Linh. Điều đó không phù hợp với lòng ao ước của Đức Chúa Trời. Theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, Hội thánh  không được ở dưới sự cai trị của con người, mà cần phải được một mình Thánh Linh dẫn dắt. Tất cả những ai thuộc về Chúa nên học tập để Thánh Linh dẫn dắt mình và không nên đi theo sự hướng dẫn của loài người. Đó là tất cả những lẽ thật được Hội Anh Em khám phá.

Ngoài ra, Hội Anh Em cũng khám phá nhiều lẽ thật]liên quan đến thời đại một ngàn năm, vấn đề cất lên, và những lời tiên tri trong sách Đa-ni-ên và Khải Thị. Họ là những nhà giải nghĩa Kinh Thánh xuất sắc về các loại biểu tượng trong Cựu Ước. Sách chú giải Ngũ Kinh của C. H. Mackintosh là tác phẩm có thẩm quyền trong loại sách này. Nhà truyền giáo D. L. Moody đã đề cao quyển này. Hội Anh Em cũng phân biệt cách sáng tỏ những lời tiên tri trong Kinh Thánh liên quan đến người Do Thái và những lời tiên tri liên quan đến Hội thánh . Cách đây một trăm năm, nhiều người lẫn lộn những lời tiên tri về người Do Thái với những lời tiên tri về Hội thánh . Họ cho rằng những lời tiên tri về người Do Thái đã ứng nghiệm trong Hội thánh . Ngoài những vấn đề ấy, Hội Anh Em còn viết nhiều tác phẩm khác nữa.

Trong giai đoạn này, nhiều anh em thuộc linh được dấy lên tại Anh Quốc. Ngoài những người được nêu tên trên đây, còn có những anh em như Charles Stanley và George Cutting. George Cutting viết một quyển sách nhỏ mang tựa đề An Toàn, Bảo Đảm và Vui Thỏa. Quyển sách này nói với mọi người rằng họ có thể biết chắc mình được cứu. Quyển sách này đã được dịch ra tiếng Hoa. Những lẽ thật về phúc âm được khôi phục đầy trọn qua các anh em này.

Ngoài các anh em này còn có Robert Govett là người thấy vấn đề phần thưởng của Cơ Đốc nhân. Ông khám phá ra rằng đúng là một người được cứu bởi đức tin, nhưng người ấy được thưởng tùy theo công việc của mình trước mặt Đức Chúa Trời. Sự cứu rỗi là vấn đề sự sống, trong khi phần thưởng là vấn đề cuộc sống. C. H. Spurgeon từng nói Govett đi trước thời đại mình một trăm năm vì những sự dạy dỗ của ông thật sâu xa. Govett nói với mọi người rằng Cơ Đốc nhân có thể bị loại trừ khỏi vương quốc ngàn năm. Vì vậy, người tín đồ phải trung tín và siêng năng. Thứ hai, ông dạy rằng không phải tất cả các tín đồ sẽ được cất lên trước đại nạn. Chỉ có những tín đồ đắc thắng và trung tín mới được dự phần trong sự cất lên này.

Các nhà giải nghĩa Kinh Thánh lần lượt được dấy lên trong giai đoạn này. Một anh em khác rất thuộc linh và nổi tiếng là G. H. Pember, đã viết nhiều sách chú giải. Cũng có những người khác chẳng hạn như D. M. Panton và Hudson Taylor. Hudson Taylor đã viết quyển Liên Hiệp và Thông Công, nói về một số kinh nghiệm sâu xa trong Christ. Những lẽ thật được đề cập trên đây đều là những khám phá vĩ đại. Mặc dầu những lẽ thật khác nhau này của Đức Chúa Trời đã được khôi phục, các lẽ thật ấy vẫn không được kể là lẽ thật quan trọng nhất của Đức Chúa Trời.

Về sau Đức Chúa Trời dấy George Muller lên tại Anh Quốc. Ông học được nhiều bài học xuất sắc về sự cầu nguyện và về đức tin nơi lời Đức Chúa Trời. Ông dạy rằng người ta có thể công bố những lời hứa của Đức Chúa Trời qua lời cầu nguyện, và ông làm chứng về cách mình sống bởi đức tin liên quan đến những nhu cầu tài chính.

Tại Mỹ có Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp, CMA. Những người nổi bật giữa vòng họ là A. B. Simpson, A. J. Gordon và những người khác. Họ đều có ảnh hưởng lớn. Ngay cả Hudson Taylor ở tại Anh Quốc cũng chịu ảnh hưởng của họ. Họ thấy rằng các tín đồ nên trở lại với kinh nghiệm của thời các Sứ Đồ là thời kỳ người ta sống bởi đức tin. Đó là khải thị lớn lao vào thời điểm ấy. Dĩ nhiên, lẽ thật này được biết đến cách rộng rãi giữa vòng chúng ta ngày nay.

Gordon và Simpson cũng khám phá ra lẽ thật liên quan đến sự chữa bịnh thần thượng và bắt đầu kinh nghiệm điều này. Điều này lan rộng nhanh chóng và được quần chúng hóa rất nhiều, và nhiều người được thu hút. Tuy nhiên Simpson nhấn mạnh rằng không phải sự chữa lành mà là sự sống phục sinh đắc thắng sự yếu đuối của xác thịt. Ông dạy rằng một người có thể đắc thắng bệnh tật nhờ nhận biết Đấng Christ là quyền năng và là Đấng Giải Cứu.

Đồng thời một nhóm người khác được dấy lên, chú ý đến sự sống bề trong. Cách đây khoảng sáu mươi năm, Đức Chúa Trời chiếm hữu được một thương gia đồ sứ tên là Robert Pearsall Smith. Ông thấy sự thánh hóa đến nhờ sự dâng mình. Loại thánh hóa này thật khác với sự thánh hóa Wesley nói đến. Sự thánh hóa của Smith đến nhờ sự dâng mình và đức tin. Sự thánh hóa Wesley rao giảng là sự sống đạt được dần dần sau khi dâng mình. Thật ra, cả hai sự dạy dỗ đều thuộc về lẽ thật. Sau chiều hướng của Smith, có bà Hannah Whitall Smith là người viết quyển Bí Quyết Đời Sống Vui Mừng của Cơ Đốc nhân (Bản dịch Việt ngữ tựa đề là Sông Phước Vô Tận do Phòng Sách Tin Lành xuất bản). Cũng có những người khác như Stocknell (?), Evan Hopkins và An drew Murray. Họ tiếp tục chiều hướng của lẽ thật liên quan đến sự từ bỏ bản ngã được rao giảng bởi những người như Madame Guyon trước đó hai trăm năm trong Giáo Hội Công Giáo. Những tín đồ này bắt đầu tổ chức những kỳ hội đồng tại Đức, Anh và những nơi khác. Những hội đồng này là bước đầu của những gì ngày nay chúng ta được biết là Hội Đồng Keswick. Người giảng dạy chính yếu tại những hội đồng này là Evan Hopkins. Ông nhận được sự giúp đỡ từ Smith cũng như từ những người khác như Madame Guyon và có ảnh hưởng thuộc linh rõ rệt trong giai đoạn ấy. Mặc dầu lẽ thật do Madame Guyon tuôn đổ không bao giờ được ưa chuộng trong suốt lịch sử Hội thánh , nhưng đã gây ảnh hưởng thuộc linh sâu đậm trên nhiều người. Ngay cả Wes­ley cũng được bà giúp đỡ. John Wesley từng nói ông ao ước mọi tín đồ đều đọc các sứ điệp của Madame Guyon và ông chịu ơn bà rất nhiều. Đức Chúa Trời đã có được một phụ nữ như vậy trong thế kỷ mười bảy, và qua bà, Ngài đã đem đến dòng chảy chính yếu của thế kỷ mười chín.

Ngoài Hopkins, còn có H. C. Trumbull là người giải phóng lẽ thật về sự sống đắc thắng tại Hội Đồng Keswick. Những sứ điệp này đem lại sự khôi phục lớn lao liên quan đến sự hiểu biết về sự sống đắc thắng và con đường để tín đồ kinh nghiệm sự sống đắc thắng này trong cuộc sống của mình.

Sau Hopkins, Đức Chúa Trời có được một chị em khác, là bà Jessie Penn-Lewis. Chị em này có thể chất rất yếu đuối trong những giai đoạn đầu của đời sống chị. Chị luôn luôn phải nằm liệt giường. Trong khi nằm trên giường bệnh, chị đọc các bài viết của Madame Guyon và giữ lấy như người bạn bên giường mình. Tuy nhiên chị không thể tin rằng sự từ bỏ mình hoàn toàn, đức tin và tình yêu được mô tả trong những bài viết ấy có thể từng được thực hành. Một ngày kia trong khi đang bàn cãi và tranh luận với Đức Chúa Trời, chị hết lòng xin Chúa đem chị vào những lẽ thật này. Chúa nghe lời cầu nguyện của chị. Từ đó về sau, chị được Chúa dấy lên để rao giảng lẽ thật về thập tự giá.

Anh Holden, một cựu giáo sĩ thuộc Hội Truyền Giáo Trung Hoa Nội Địa, đã đi đến chỗ nhận biết ý nghĩa của thập tự giá khi đọc các sách của bà Penn-Lewis. Bà Penn-Lewis là người thật sự vác thập tự giá. Qua kinh nghiệm của bà, nhiều tín đồ được thu hút đến chỗ theo đuổi lẽ thật liên quan đến thập tự giá. Qua những người nam, người nữ này, Đức Chúa Trời dẫn nhiều người đến chỗ nhận biết trọng tâm của công tác Đức Chúa Trời là thập tự giá. Thập tự giá là nền tảng cho mọi vấn đề thuộc linh. Không có công tác của thập tự giá, một người sẽ không biết sự chết là gì và tội là gì. Nhiều người thuộc linh nhận được giúp đỡ rất nhiều qua bà. Qua những sứ điệp bà rao giảng, Đức Chúa Trời ban sự giải cứu cho nhiều người. Chúng ta có thể thấy sự khám phá lẽ thật của Đức Chúa Trời đang tiến triển; lẽ thật càng tiến tới, càng trở nên trọn vẹn. Vào cuối thế kỷ mười chín, hầu hết mọi lẽ thật đều được khôi phục.

SỰ TIẾN TRIỂN CỦA LẼ THẬT VÀO THẾ KỶ HAI MƯƠI

Bây giờ chúng ta đến thế kỷ hai mươi. Hai biến cố lớn đã xảy ra trong thế kỷ hai mươi. Biến cố thứ nhất là Loạn Quyền Phỉ tại Trung Quốc vào năm 1900. Trong cuộc nổi loạn này nhiều Cơ Đốc nhân đã tuận đạo. Biến cố thứ hai là cuộc Phục Hưng vĩ đại tại Wales vào năm 1904. Trong cuộc phục hưng này, nhiều thành phố chứng kiến toàn bộ dân cư trong thành phố mình được cứu đến mức không còn hồn người nào để cứu nữa. Nhiều hiện tượng của lễ Ngũ Tuần được bày tỏ giữa vòng họ.

Người lãnh đạo cuộc phục hưng này là Evan Roberts, một người thợ mỏ than hai mươi hai tuổi. Anh không học cao. Đức Chúa Trời đã kêu gọi một người như vậy từ giữa những người thấp hèn và ban cho anh một đồng công, là Hastwell (?). Sau khi được cứu, Roberts thường cầu nguyện tha thiết trong các mỏ than. Lời cầu nguyện duy nhất của anh là “Chúa ơi, xin bẻ cong Hội thánh  để cứu thế gian”. Những người quanh anh vừa bối rối vừa có ấn tượng sâu sắc. Dần dần, có thêm nhiều người cùng cầu nguyện với anh, và chẳng bao lâu cả mỏ đều chịu ảnh hưởng. Nhiều thợ mỏ chỗi dậy cầu nguyện. Cuộc phục hưng bắt đầu lan rộng đến cả miền nam nước Anh.

Từ nơi họ, chúng ta học biết hai lẽ thật: thứ nhất, công tác phục hưng của Thánh Linh được đem đến do một nhóm người được bẻ cong và bắt phục. Chúng ta không cần cầu xin Đức Chúa Trời sai đến cho chúng ta một cuộc phục hưng ở bề ngoài. Chúng ta chỉ cần cầu xin Ngài bắt phục chúng ta một cách sâu xa hơn và tươi mới hơn. Rồi sự sống sẽ tự phát tuôn ra từ bản thể chúng ta.

Thứ hai, từ thời điểm ấy trở đi, nhiều người bắt đầu hiểu công tác của các ác linh. Trước thời điểm đó, mặc dầu người ta nói về đề tài này, sự hiểu biết của họ không thấu đáo. Anh Roberts hiểu chiến trận thuộc linh nghĩa là gì. Các Cơ Đốc nhân đã không am hiểu thấu đáo kinh nghiệm về Ê-phê-sô chương 6 mãi cho đến thời của anh. Vào năm 1908 trong khi đang nằm trên giường bệnh, anh thuật kinh nghiệm về chiến trận của mình với các ác linh cho ông bà Penn-Lewis. Dựa trên sự hiểu biết này và kinh nghiệm của mình, bà đã viết quyển Chiến Trận Nơi Các Thánh Đồ là tác phẩm đã giúp cho nhiều tín đồ bị lừa dối được tự do. Trong một vài năm qua, hầu hết mọi sứ điệp được nói đến giữa vòng các tín đồ thuộc linh là những sự dạy dỗ của bà Penn-Lewis. Đó là những lẽ thật liên quan đến chiến trận thuộc linh và thập tự giá.

Đang khi cuộc phục hưng này diễn ra, một công tác mới khác bắt đầu ở Los Angeles tại Mỹ. Từ năm 1908 đến 1909, một số tín đồ da đen ở đường Azusa kinh nghiệm báp-têm Thánh Linh và bắt đầu nói các thứ tiếng. Về việc nói các thứ tiếng, đúng là có nhiều người thực hành cách cực đoan và không đúng đắn. Dĩ nhiên chúng ta không hoàn toàn loại bỏ việc nói các thứ tiếng. Chúng ta nên giúp đỡ người khác có kinh nghiệm lễ Ngũ Tuần này. Một mặt, Phao-lô dạy rằng không phải mọi người đều nói các thứ tiếng (1 Cô. 12:30). Mặt khác, ông bảo chúng ta: “Đừng cấm nói các thứ tiếng” (14:39). Câu đầu tiên dành cho những người quá nhấn mạnh đến điều này. Câu thứ hai dành cho những người bỏ qua điều này. Chúng ta nên lưu ý cả hai phương diện.

Những người ấy thấy lời tiên tri trong Giô-ên chương 2 chỉ được thực hiện một phần vào thời các sứ đồ và ngày có cơn mưa cuối phải đến rồi mới có sự ứng nghiệm trọn vẹn. Nói về mặt thuộc linh, “ngày của cơn mưa sau” chỉ về ngày nay.

CÔNG TÁC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI NGÀY NAY VÀ CÁC SỰ KHẢI THỊ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TÍCH LŨY

Qua phần thảo luận trên chúng ta có thể thấy những khám phá khác nhau về các lẽ thật của Đức Chúa Trời xảy ra trước và trong thế kỷ này. Bây giờ chúng ta cần hỏi: công tác của Đức Chúa Trời tại Trung Quốc ngày nay là gì? Hôm nay Đức Chúa Trời đang làm công việc gì?

Ngay sau khi được cứu, tôi được nghe nhiều giáo sĩ nước ngoài dạy dỗ. Trước năm 1920 hiếm có ai giảng sứ điệp về sự cứu rỗi tại Trung Quốc. Sau năm 1920, nhiều sứ điệp về sự cứu rỗi, sự xưng công chính và sự tái sinh được rao giảng. Trước thời điểm ấy, thậm chí nhiều người không biết về sự cứu rỗi. Hiện nay có trên một trăm năm mươi giáo phái khác nhau. Đức Chúa Trời cho chúng tôi thấy sự sai lầm của chủ nghĩa giáo phái và lầm lỗi của chủ nghĩa bè phái. Vì lý do đó chúng tôi bắt đầu rao giảng những sứ điệp này. Về sau Đức Chúa Trời lần lượt bày tỏ cho chúng tôi những lẽ thật khác nhau, tức là những lẽ thật chúng tôi đã đề cập trên đây. Dần dần chúng tôi bắt đầu nhìn thấy sự đắc thắng của Đấng Christ, sự sống phục sinh, sự dạy dỗ về thập tự giá, công tác của Thánh Linh, v.v... Khắp nơi tại Trung Quốc, người ta bắt đầu hiểu những điều này. Trong khi tương giao với các giáo sĩ Tây Phương, chúng tôi biết được nhiều lẽ thật trong số các lẽ thật này cũng đã được khám phá ở Tây Phương theo cùng một cách.

Chúng ta biết các lẽ thật của Đức Chúa Trời có tính cách tích lũy; những lẽ thật đến sau không phủ nhận những lẽ thật đến trước. Tất cả các lẽ thật của Đức Chúa Trời trong quá khứ hình thành nền tảng cho các lẽ thật hôm nay. Điều chúng ta thấy ngày nay là những khải thị có tính cách tích lũy của Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời mở mắt chúng tôi nhìn thấy sự thật này, chúng tôi nhận thức mình đang sống trong thủy triều của ý muốn Đức Chúa Trời. Thủy triều này là sự nối tiếp tất cả các công tác quá khứ của Đức Chúa Trời trong những thời đại trước.

Từ năm 1926 trở đi, chúng tôi bắt đầu giảng nhiều bài liên quan đến sự cứu rỗi, Hội thánh , thập tự giá và làm chứng nhiều về những điều này. Đến năm 1927 chúng tôi tập trung vào công tác của thập tự giá về phương diện kinh nghiệm. Chúng tôi thấy về thập tự giá, không những chỉ có sự kiện về sự chết của Đấng Christ, mà còn có sự kiện về sự phục sinh. Trong quá khứ, sự phục sinh mà chúng tôi rao giảng chính yếu là vấn đề đức tin, không liên quan đến kinh nghiệm của chúng ta. Điều chúng tôi rao giảng hôm nay là sự phục sinh như một nguyên tắc của sự sống. Đó không chỉ là giáo lý, mà là một sự thật thuộc linh. Giống như một hạt lúa mì chết đi và kết nhiều hạt; đó là nguyên tắc phục sinh. Sau đó Đức Chúa Trời cho chúng tôi thấy Thân Thể của Đấng Christ là gì và thực tại của Thân Thể ấy ở đâu. Chúng tôi bắt đầu nhận thức rằng vì chỉ có một sự sống của Đấng Christ, nên chỉ có một Hội thánh .

Cá nhân tôi được Bà Penn-Lewis giúp đỡ rất nhiều. Tại Anh, ông Austin-Spark cũng được bà giúp đỡ nhiều. Anh Sparks là mục sư của một nhà thờ Báp-tít ở đông nam Luân-đôn. Về sau Chúa bày tỏ cho anh thấy những lẽ thật khác nhau về ý nghĩa của sự phục sinh và ý nghĩa của nếp sống Hội thánh .

Chúng ta không thể nói rằng những lẽ thật vừa được đề cập ở trên trước đây không có. Tuy nhiên, những lẽ thật ấy chưa được khải thị cách rõ ràng như hiện nay. Dầu vậy, trước năm 1928, chúng tôi không đề cập một điều nào liên quan đến các vấn đề trung tâm của Đức Chúa Trời. Vào tháng hai năm 1928, chúng tôi bắt đầu đề cập một điều gì đó liên quan đến mục đích đời đời của Đức Chúa Trời. Từ đó về sau, chúng tôi bắt đầu nói với mọi người mục đích đời đời của Đức Chúa Trời là gì. Trong năm đó, chúng ta có Hội Đồng Người Đắc Thắng lần đầu tiên. Sau đó chúng ta có Hội Đồng Người Đắc Thắng lần thứ hai. Mọi điều được đề cập đến trong những hội đồng này đều liên quan đến chủ đề trọng tâm của Đức Chúa Trời.

Dầu đã có những khải thị trên đây, mãi đến năm 1934, chúng tôi mới nhận biết trọng tâm của mọi sự liên quan đến Đức Chúa Trời đều là Đấng Christ. Đấng Christ là trung tâm điểm của Đức Chúa Trời và là toàn thể mọi sự của Đức Chúa Trời. Toàn bộ kế hoạch của Đức Chúa Trời đều liên quan đến Đấng Christ. Đó là lẽ thật Đức Chúa Trời vui lòng khải thị cho chúng ta trong những ngày này. Đó cũng là sứ điệp chúng tôi đang rao giảng trong kỳ hội đồng này. Đó cũng là điều Đức Chúa Trời bày tỏ cho anh Sparks. Anh ấy thấy nhiều về lẽ thật liên quan đến những người đắc thắng của Đức Chúa Trời.

Những người đắc thắng của Đức Chúa Trời là nhóm người đi đầu để đứng trong chỗ chết thay cho toàn thể hội chúng. Mối liên hệ của họ với Hội thánh  là mối liên hệ của Si-ôn với Giê-ru-sa-lem. Mọi điều Đức Chúa Trời đòi hỏi đều là đòi hỏi nơi Si-ôn. Khi Ngài có được Si-ôn, thì Ngài cũng có được Giê-ru-sa-lem. Khi cả Si-ôn lẫn Giê-ru-sa-lem đều được chiếm hữu, thì mục đích của Đức Chúa Trời được hoàn thành.

Chúng tôi đầy lòng cảm tạ Đức Chúa Trời. Chúng tôi đã được giúp đỡ nhiều qua tất cả những anh em này. Như Phao-lô đã nói: “Tôi cũng không nhận điều đó từ loài người” (Ga. 1:12). Cũng vậy, chúng tôi có thể nói mặc dầu mình nhận được sự giúp đỡ từ các anh em, chúng tôi không nhận những sự khải thị này từ loài người. Chúng tôi nhận được sự giúp đỡ từ Luther, Zinzendorf, các anh em Moravian, và các sứ điệp Keswick. Ngày nay chúng tôi tin rằng mục tiêu tối hậu của Đức Chúa Trời là có Đấng Christ làm mọi sự. Một mục sư lớn tuổi là Tiến sĩ F. B. Meyer cũng thấy điều này. Tuy nhiên khi ấy ông đã trên chín mươi tuổi và không thể làm việc nhiều. Tôi tin rằng ngày nay Đức Chúa Trời chỉ có một công tác. Đó là sứ điệp của Cô-lô-se 1:18, là câu nói rằng Đức Chúa Trời ao ước thấy Đấng Christ trở nên đầu nhất trong mọi sự. Nền tảng của mọi sự là sự chết, sự phục sinh, và sự thăng thiên của Đấng Christ. Ngoài Đấng Christ, không có thực tại thuộc linh. Đó là “lẽ thật hiện tại” của Đức Chúa Trời.

LÊN TIẾNG KÊU GỌI

Vậy thì chúng ta làm gì ngày nay? Chúng ta nên trả lời như Giăng Báp-tít đã trả lời rằng chúng ta là tiếng kêu trong đồng vắng (Gi. 1:23). Công tác của chúng ta là lên tiếng kêu gọi con cái của Đức Chúa Trời trở về với mục đích trung tâm của Đức Chúa Trời, ấy là lấy Đấng Christ làm trung tâm của mọi sự, lấy sự chết, sự phục sinh và sự thăng thiên của Ngài làm nền tảng cho mọi sự. Đó là sứ điệp của Cô-lô-se chương 1 và 3. Chúng ta biết vị trí của Hội thánh  trong Tân Ước. Chúng ta nhận biết rằng vị trí này cao cả và thuộc linh. Chúng ta cảm tạ Đức Chúa Trời về sự giúp đỡ chúng ta đã nhận được từ các giáo sĩ Tây Phương. Nhưng ngày nay Đức Chúa Trời đang bày tỏ cho chúng ta rằng chúng ta nên đem mọi sự trở lại mục đích trung tâm của Ngài. Ngày nay công tác của chúng ta là trở lại với nền tảng Kinh Thánh của Hội thánh .

Mọi lẽ thật của Đức Chúa Trời đều lấy Hội thánh  làm khởi điểm. Phao-lô ban đầu được đặt vào Hội thánh  tại An-ti-ốt. Về sau ông được Hội thánh  tại An-ti-ốt sai đi. Tất cả các lẽ thật mà ngày nay chúng ta rao giảng đều có Hội thánh  làm bước khởi đầu. Đó là công tác của chúng ta và là lời chứng của chúng ta.

Chúng ta nên bớt đề cập đến những lẽ thật linh tinh. Chúng ta nên làm mọi sự mình có thể làm được để bày tỏ cho người ta thấy Chúa là Đầu trên tất cả mọi sự. Chúng ta không ở đây để làm rối loạn các Hội thánh . Trái lại chúng ta ở đây để trở về với công tác ban đầu của các sứ đồ. Chúng ta phải thận trọng về mọi điều mình làm. Chúng ta phải học từ bỏ mọi sự của con người, và phấn đấu đạt đến mọi sự của Đức Chúa Trời.

Chúng ta cảm tạ Đức Chúa Trời vì được chạm đến mục đích lớn lao của Ngài. Chúng ta cần khiêm nhường phủ phục và từ chối chính mình. Chúng ta cần sáng tỏ rằng công tác của chúng ta ngày nay không phải chỉ là cứu một vài hồn người hay giúp đỡ những người khác trở nên thuộc linh. Mục tiêu của chúng ta thật vô cùng lớn lao và vinh hiển. Tạ ơn Đức Chúa Trời chúng ta có thể biết “lẽ thật hiện tại” của Đức Chúa Trời. Nguyện Đức Chúa Trời đầy ân điển đối với chúng ta để chúng ta không trở nên những người bị loại bỏ đối với “lẽ thật hiện tại”. Nguyện chúng ta thức canh, và không cho phép xác thịt bước vào hay bản ngã chiếm được một vị trí nào cả. Nguyện ý muốn của Đức Chúa Trời được thành tựu trong chúng ta.

BỐN TRÁCH NHIỆM HIỆN NAY

Cuối cùng tôi muốn thêm một vài lời. Ngày nay chúng ta có bốn trách nhiệm: (1) Đối với tội nhân, chúng ta phải rao giảng phúc âm. (2) Đối với Sa-tan, chúng ta phải nhận biết có chiến trận thuộc linh. (3) Đối với Hội thánh , chúng ta phải nắm vững những gì mình thấy hôm nay. (4) Đối với Đấng Christ, chúng ta phải làm chứng về sự kiện là Ngài ưu việt trong mọi sự. Ngày nay chứng cớ này có thể tìm thấy tại Mỹ, Anh, Pháp, Tây-ban-nha, Châu Phi, và khắp nơi. Tuy nhiên, số lượng không nhiều. Nói theo bề ngoài, tình trạng của họ còn rất nghèo nàn. Chúng ta nên cầu nguyện cho những nơi ấy.