Thông tin sách

Những Người Đắc Thắng Của Đức Chúa Trời

Tác giả: Watchman Nee
Dịch từ bản tiếng Anh: God's Overcomers
ISBN: 0-7363-0433-9
Mua sách tại:

Đang đọc: Chương 3

Untitled Document

CHƯƠNG BA

NGƯỜI ĐẮC THẮNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

I. KẾ HOẠCH ĐỜI ĐỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ HỘI THÁNH

Kinh Thánh: Êph. 1:23

Kế Hoạch Đời Đời Của Đức Chúa Trời

Đức Chúa Trời có một kế hoạch đời đời trước khi tạo lập thế giới. Kế hoạch này có hai mục tiêu. Mục tiêu thứ nhất là làm cho mọi sự bày tỏ Đấng Christ, và mục tiêu thứ hai là làm cho con người giống như Đấng Christ, để con người có sự sống và vinh hiển của Ngài. Trong khi Đức Chúa Trời ao ước hoàn thành hai mục tiêu này, Ngài đương đầu với hai nan đề: sự nổi loạn của Sa-tan và sự sa ngã của con người.

Vào lúc thiên sứ trưởng thấy Đấng Christ là trung tâm của mọi sự, hắn trở nên ganh tị vì kiêu ngạo. Hắn muốn nhấc mình lên ngang hàng với Con Đức Chúa Trời. Hắn nổi loạn vì muốn cướp vị trí trung tâm của Đấng Christ. Một phần ba các thiên sứ đi theo hắn để nổi loạn nghịch lại Đức Chúa Trời, và vào ngày ấy tất cả các tạo vật sống động trên đất cũng đi theo hắn. Sự nổi loạn của Sa-tan làm cho mọi sự hỗn loạn, không thể bày tỏ Đấng Christ. Vũ trụ là một thực thể lớn lao. Theo khoa học, chúng ta biết nếu một hạt bụi không ở trong trật tự, thì cả vũ trụ có thể bị đảo lộn và rối loạn. Ngày nay, dầu mọi sự có thể bày tỏ vinh hiển của Đức Chúa Trời, nhưng chúng không thể bày tỏ chính Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời tạo dựng con người để trước hết họ có sự sống và vinh hiển của Đấng Christ, và Ngài dự định đặt mọi vật thuận phục con người để con người đem mọi sự trở về với Đức Chúa Trời. Thứ hai, Ngài tạo dựng con người để họ hợp tác với Đức Chúa Trời xử lý Sa-tan nổi loạn.

Nhưng con người cũng sa ngã. Vì vậy, bây giờ Đức Chúa Trời phải hoàn thành hai mục tiêu và giải quyết hai nan đề. Để hoàn thành hai mục tiêu của mình, Đức Chúa Trời phải (1) cứu con người sa ngã và (2) loại bỏ Sa-tan nổi loạn.

Để thực hiện hai mục tiêu của Đức Chúa Trời và giải quyết hai nan đề của Ngài, Chúa Jesus đã trở nên con người và hoàn thành sự cứu chuộc. Chúa Jesus không những là Đấng Christ đối với nhân loại, mà còn là Đấng Christ đối với mọi sự. Đấng Christ là trung tâm điểm và là toàn thể mọi sự. Là toàn thể mọi sự nghĩa là Ngài không bị thời gian và không gian giới hạn. Đấng Christ không những là Đấng Christ của người Do-thái, hay Đấng Christ của Hội thánh , mà Ngài còn là Đấng Christ của tất cả mọi sự. Ngài là tất cả trong tất cả.

Sự cứu chuộc của Đấng Christ có ba phương diện: (1) thay thế cho cá nhân; (2) đại diện cho Hội thánh ; và (3) hội hiệp mọi sự dưới một đầu. Đấng Christ là Đầu bao hàm mọi sự. Khi Đầu chết, mọi sự bao hàm trong Đầu cũng chết. Sự chết của Đấng Christ là sự chết bao-hàm-tất-cả. Sự chết của Đấng Christ là Đầu đã đem mọi sự và nhân loại vào sự chết, để mọi sự và nhân loại bây giờ được giải hòa với Đức Chúa Trời.

Đấng Christ xử lý mọi sự trên thập tự giá. Ngài giày đạp đầu con rắn, xử lý Sa-tan nổi loạn và tất cả công việc của hắn trên thập tự giá. Ngài cứu nhân loại sa ngã trên thập tự giá. Ngài đem mọi sự trở lại và làm cho mọi sự hòa lại với Đức Chúa Trời trên thập tự giá. Trên thập tự giá, Ngài ban sự sống của Ngài cho con người để con người được giống như Ngài.

Vì vậy, chúng ta có thể thấy Đức Chúa Trời có hai mục tiêu và cũng có hai nan đề. Nhờ thập tự giá, Đấng Christ hoàn thành hai mục tiêu và cũng giải quyết hai nan đề của Đức Chúa Trời.

Vị Trí Và Trách Nhiệm Của Hội thánh  

Đức Chúa Trời đã đặt Hội thánh  ở vị trí nào? Đức Chúa Trời muốn Hội thánh  mang sứ mạng nào trên đất? Tại sao Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan, là kẻ mà đầu đã giập nát, vẫn còn được lưu lại trên đất?

Đức Chúa Trời muốn Hội thánh  trên đất không những rao giảng phúc âm để cứu tội nhân nhưng cũng làm chứng về chiến thắng của Đấng Christ trên thập tự giá. Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan ở lại trên đất để cung cấp cho chúng ta cơ hội làm chứng về chiến thắng của Con Ngài. Đức Chúa Trời mong chúng ta sẽ làm chứng về chiến thắng của Con Ngài. Tất cả những tín đồ thất bại đều phá hỏng chứng cớ này.

Hội thánh là Thân Thể của Đấng Christ. Thân Thể phải tiếp tục công tác của Đầu. Hội thánh  là sự đầy trọn của Đấng Christ. Những gì tuôn tràn ra từ Đấng Christ là Hội thánh . Hội thánh  phải tiếp tục công tác của bốn sách Phúc âm.

Có ba điều rất quan trọng trong Tân Ước: (1) thập tự giá, (2) Hội thánh , và (3) vương quốc. Đấng Christ trên thập tự giá đã hoàn thành sự cứu chuộc và sự đắc thắng. Vương quốc là để bày tỏ sự cứu chuộc đã hoàn tất của Đấng Christ và bày tỏ chiến thắng của Ngài. Hiện nay, Hội thánh  đang duy trì trên đất điều Đấng Christ đã hoàn thành trên thập tự giá. Thập tự giá là sự phán xét đúng đắn của Đức Chúa Trời theo luật pháp, trong khi vương quốc là sự thực thi uy quyền của Đức Chúa Trời. Hội thánh  nằm ở giữa, một mặt duy trì thành tựu của thập tự giá và mặt khác là tiền vị của quyền năng trong thời đại sắp đến.

Sa-tan không thể đắc thắng cá nhân Đấng Christ, nhưng hắn có thể sỉ nhục cá nhân Đấng Christ qua Đấng Christ tập thể. Sự thất bại của Thân Thể là sự thất bại cho Đầu. Sự thất bại của một chi thể là sự thất bại của Thân Thể. Chúng ta là “sự tiếp tục” của Đấng Christ. Chúng ta phải làm lan rộng Đấng Christ (Ês. 53:10) y như chúng ta đã làm lan rộng A-đam. Đức Chúa Trời cho phép chúng ta tiếp tục ở trên đất nhằm mục đích hoàn thành kế hoạch đời đời của Ngài và đạt được mục tiêu đời đời của Ngài.

Trước khi rương chứng cớ vào Giê-ru-sa-lem, rương ấy ở trong nhà Ô-bết-ê-đôm, người Gát (2 Sa. 6). Chúng ta phải trung tín quan tâm đến huyết trên rương chứng cớ (công tác của Đấng Christ) và chê-ru-bim trên rương ấy (vinh hiển của Đức Chúa Trời).

(Chiều ngày 24 tháng giêng)

II. BẢN CHẤT SỰ CHIẾN THẮNG CỦA ĐẤNG CHRIST VÀ HỘI THÁNH

Kinh Thánh: Khải. 3:21

Tất cả các chiến thắng đều nên lấy chiến thắng của Đấng Christ làm kiểu mẫu: “Như Ta cũng đã đắc thắng”.

Ba Kẻ Thù

Kinh Thánh cho biết chúng ta có ba kẻ thù khác nhau: (1) xác thịt ở trong chúng ta, (2) thế gian ở bên ngoài chúng ta, và (3) Sa-tan ở trên và dưới chúng ta. Theo vị trí thăng thiên của Hội thánh , Sa-tan ở dưới chúng ta.

Có ba quốc gia trong Cựu Ước tượng trưng cho ba kẻ thù này. A-ma-léc tượng trưng cho xác thịt; chúng ta phải đắc thắng nó bởi lời cầu nguyện của mình. Ai-cập tượng trưng cho thế gian; Ai-cập phải bị chôn dưới Biển Đỏ. Ca-na-an tượng trưng cho các thế lực của Sa-tan; chúng ta phải lần lượt đắc thắng và loại bỏ chúng.

Xác thịt nghịch với Linh (Ga 5:17). Thế gian nghịch với Cha. Nếu ai yêu thế gian, tình yêu Cha không ở trong người ấy (1 Gi. 2:15). Sa-tan nghịch với Đấng Christ. Đấng Christ đến để hủy diệt Sa-tan (1 Gi. 3:8). Vì vậy, thuận phục Linh là đắc thắng xác thịt, yêu Cha là đắc thắng thế gian, và đức tin nơi Đấng Christ là đắc thắng Sa-tan.

Điều đầu tiên đã xen vào là xác thịt. Một ngày kia, thiên sứ trưởng tìm cách tự nhấc mình lên để giống Đức Chúa Trời bằng phương tiện là “bản ngã”, và “bản ngã” đã vào trong thế gian. Đó là bước đầu của tội, thế gian và Sa-tan.

Vào lúc Đức Chúa Trời tạo dựng con người, Ngài ban cho con người khả năng cao nhất, khả năng tái sản sinh, nhờ đó con người có thể truyền sự sống của mình cho con cháu. Ban đầu Đức Chúa Trời mong con người ăn trái cây sự sống để con người có sự sống của Đức Chúa Trời rồi truyền sự sống ấy cho con cháu mình. Đức Chúa Trời cấm họ ăn trái cây kiến thức về thiện và ác. Nhưng Sa-tan đến phạm tội gian dâm thuộc linh với cặp vợ chồng đầu tiên trong hồn của họ. Sa-tan đặt hạt giống độc hại của hắn vào trong họ để họ truyền cho con cháu mình. Sa-tan là cha của những kẻ nói dối. Hạt giống của Sa-tan là sự giả dối. Hạt giống của Đức Chúa Trời là lẽ thật. Nguyên tắc Sa-tan quyến rũ A-đam phạm tội chính là nguyên tắc đã gây cho hắn phạm tội lúc ban đầu.

Sa-tan có nhà của hắn và vương quốc của hắn. Hắn giành loài người để làm những thành viên trong nhà hắn và công dân của vương quốc hắn để hắn làm vua trên họ.

Sau khi quyến rũ con người phạm tội, công việc của hắn bị giới hạn lại từ phạm vi vũ trụ thành ra chỉ còn trên đất, là thế gian. Hắn bị rủa sả: “Ngươi sẽ bò bằng bụng ngươi,/ ăn bụi đất trọn đời ngươi” (Sáng. 3:14). Hắn chỉ có thể di chuyển trên đất và chỉ có thể có con người ra từ bụi đất làm thức ăn cho mình. Đó là sự thất bại lớn của Sa-tan. Sự sa ngã của con người là chiến thắng lớn cho Đức Chúa Trời.

Sa-tan có hệ thống của hắn trên trái đất này. Tổ chức của hắn trở nên thế gian hiện nay. Sa-tan là vua của tổ chức này, còn cả thế gian đều nằm trong tay hắn.

Chiến Thắng Của Đấng Christ

Trước khi Chúa Jesus bắt đầu phụng sự, Ngài chịu báp-têm. Điều này có nghĩa là công tác của Ngài suốt ba năm rưỡi được thực hiện sau sự chết và sự phục sinh của Ngài. Kết quả là không có xác thịt trong công tác của Ngài. Chúng ta có thể gọi ba năm rưỡi này là cuộc sống thập tự giá. Chúa Jesus không bao giờ bước đi theo ý mình nhưng theo ý muốn của Đấng sai Ngài. Ngài làm theo ý muốn của Cha và cũng chờ đợi thời điểm của Cha (Gi. 7:6).

Sa-tan cám dỗ Chúa làm một điều mà không có lời của Cha bằng cách bảo Ngài hóa đá thành ra bánh. Nhưng Chúa đáp rằng con người sống nhờ mỗi một lời của Đức Chúa Trời (Mat. 4:4). Nhiều lần Ngài nói Ngài chỉ nói những gì Ngài nghe, và trong Giăng 5:30 Ngài nói: “Ta không tự mình làm gì được”. Câu này có nghĩa là Ngài không xem bản ngã của mình là nguồn. Sa-tan luôn luôn muốn con người tự xưng mình là công chính sau khi Đức Chúa Trời đã xưng con người là công chính. Dường như Sa-tan tìm cách thuyết phục Chúa tuyên bố Ngài là Con Đức Chúa Trời sau khi Đức Chúa Trời đã tuyên bố điều đó.

Sự đóng đinh của Chúa là theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Ngài cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-nê, “Không phải theo ý Con, mà theo ý Cha” (Mat. 26:39). “Nếu chén này không thể cất đi, trừ phi Con uống nó, thì nguyện ý Cha được nên” (Mat. 26:42). Cuối cùng Ngài nói: “Chén mà Cha đã ban cho Ta, Ta không uống sao?” (Gi. 18:11). Chấp nhận được thập tự giá là một chiến thắng. Không bị rúng động bởi những điều bên trong hay bên ngoài là một chiến thắng. Đắc thắng là không có gì của xác thịt bên trong, không có gì của thế gian bên ngoài, và không có gì của Sa-tan bên dưới. Suốt cuộc đời Ngài, Chúa không cho phép xác thịt bước vào cuộc sống mình. Ngài luôn luôn bỏ xác thịt qua một bên. Chúa là Người đầu tiên mà Sa-tan không kiếm được gì nơi Ngài. Xác thịt và thế gian đều không có chỗ trong Ngài.

Đức Chúa Trời Dự Định Hội thánh Sống Bày Tỏ Sự Đắc Thắng Của Đấng Christ

Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời là cứu con người khỏi xác thịt, thế gian và Sa-tan. Đức Chúa Trời muốn chúng ta từ chối mọi sự từ thế gian, trái đất, bản ngã, xác thịt và Sa-tan. Sa-tan tấn công chúng ta qua thế gian và xác thịt. Chỉ những ai tuyệt đối thuộc linh, tuyệt đối từ chối hệ thống thế gian và ý muốn của xác thịt mới bị Sa-tan trực tiếp tấn công.

Thập tự giá của Đấng Christ cần Thân Thể của Đấng Christ. Nếu một tội nhân chỉ chấp nhận thập tự giá cách khách quan thì chỉ có người ấy mới đạt được một điều gì đó. Tuy nhiên, nếu chúng ta chấp nhận thập tự giá trong kinh nghiệm, Đức Chúa Trời sẽ đạt được điều gì đó. Thập tự giá của Đấng Christ như một con dao cắt bỏ mọi sự thuộc về cõi sáng tạo cũ, trong khi sự phục sinh của Ngài đem chúng ta vào một khởi đầu mới.

Chiến thắng của Đấng Christ được nhìn thấy trong (1) sự đóng đinh, là điều loại bỏ toàn bộ cõi sáng tạo cũ về phương diện tiêu cực, (2) sự phục sinh đem đến một khởi đầu mới về phương diện tích cực, và (3) sự thăng thiên bảo vệ vị trí đắc thắng cho Ngài.

Hội thánh  sống bày tỏ sự đắc thắng của Đấng Christ trên đất bởi sự chết, sự phục sinh và sự thăng thiên của Đấng Christ. Thập tự giá cần phải được trồng tại trung tâm sự sống chúng ta. Đức Chúa Trời muốn chúng ta chịu trách nhiệm về sự cắt bỏ phần thuộc về cõi sáng tạo cũ của thập tự giá mà chúng ta biết được. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta chịu trách nhiệm về phần của cõi sáng tạo cũ mà chúng ta không biết.

 (Chiều ngày 25 tháng giêng)

III. AI LÀ NHỮNG NGƯỜI ĐẮC THẮNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

Kinh Thánh: Khải. 2:7, 11, 17, 26; 3:5, 12, 21

Sự Thất Bại Của Hội thánh  

Lý do Hội thánh  ở trên đất là để duy trì chiến thắng của Đấng Christ trên thập tự giá và cột trói Sa-tan tại mỗi địa phương như Chúa đã trói hắn tại Gô-gô-tha. Trên thập tự giá, Chúa đã kết án Sa-tan theo luật pháp. Bây giờ Đức Chúa Trời muốn Hội thánh  thi hành sự phán xét ấy trên đất.

Sa-tan biết Hội thánh  sẽ tham gia vào việc đánh bại hắn. Đó là lý do vì sao hắn bắt bớ và tìm cách lừa dối Hội thánh  bằng sự giả dối của hắn. Hắn là kẻ giết người và là kẻ nói dối. Hội thánh  không sợ nét mặt giận dữ của hắn nhưng sợ gương mặt mỉm cười của hắn. Sách Công Vụ Các Sứ Đồ ghi lại thế nào Hội thánh  đã trải qua sự chết mà vào sự sống. Đức Chúa Trời dùng sự tấn công của Sa-tan để bày tỏ chiến thắng của Đấng Christ. Tuy nhiên, Hội thánh  dần dần bị thoái hóa. Chẳng hạn như có sự giả dối của A-na-nia và Sa-phi-ra, sự tham lam của Si-môn, sự chấp nhận những anh em giả dối, nhiều người chăm lo việc riêng mình, và nhiều người từ bỏ Phao-lô khi ông ở tù.

Đức Chúa Trời Tìm Kiếm Những Người Đắc Thắng

Sau sự thất bại của Hội thánh , Đức Chúa Trời tìm kiếm một số ít người trong Hội thánh  để trở nên những người đắc thắng của Ngài, đó là những người mang trách nhiệm mà Hội thánh  lẽ ra phải gánh vác nhưng đã không gánh vác. Đức Chúa Trời muốn một số ít người trung tín đại diện cho Hội thánh  và duy trì chiến thắng của Đấng Christ. Trong cả bảy thời đại của Hội thánh , đều có những người đắc thắng của Đức Chúa Trời. [Trải qua các thế hệ] hàng ngũ những người đắc thắng này không bao giờ bị gián đoạn. Những người đắc thắng không phải là những người đặc biệt. Những người đắc thắng của Đức Chúa Trời là nhóm người đồng lòng với mục đích nguyên thủy của Đức Chúa Trời.

Nguyên Tắc Những Người Đắc Thắng

Theo Kinh Thánh, khi Đức Chúa Trời muốn thực hiện một điều gì, trước hết Ngài chọn lựa [và thực hiện trong] một số ít người làm nền tảng và rồi sau đó Ngài thực hiện điều như vậy trong đa số dân chúng. Bản ký thuật về thời đại của các tổ phụ minh chứng nguyên tắc này là đúng. Vào thời ấy, đây đó Đức Chúa Trời rải rác chọn lựa những con người. Có những con người như A-bên, Hê-nóc, Nô-ê, và Áp-ra-ham. Từ Áp-ra-ham, bản ký thuật nói đến dân Israel; từ thời đại các tổ phụ, đến thời đại luật pháp; từ thời đại luật pháp, đến thời đại ân điển; từ thời đại ân điển, đến thời đại vương quốc; từ thời đại vương quốc, đến trời mới đất mới. Vương quốc đi trước trời mới đất mới. Bàn thờ và đền tạm của thời đại luật pháp tượng trưng cho những điều thuộc về thời đại ân điển. Đó là nguyên tắc của công tác Đức Chúa Trời, luôn luôn đi từ ít đến nhiều.

Cô-lô-se 2:19 nói: “... bám lấy Đầu, mà ra từ Ngài cả Thân Thể được cung ứng dồi dào và cùng liên kết với nhau nhờ các khớp và gân, lớn lên bởi sự tăng trưởng của Đức Chúa Trời”. “Khớp” là để cung ứng, trong khi “gân” là để liên kết với nhau. Đầu cung ứng và liên kết cả thân thể lại với nhau qua các khớp và gân. Chỉ có những người đắc thắng mới là những khớp cung ứng và gân liên kết.

Giê-ru-sa-lem tượng trưng cho Hội thánh . Trong Giê-ru-sa-lem có núi Si-ôn. Giê-ru-sa-lem tượng trưng cho toàn thân thể của Hội thánh , trong khi Si-ôn tượng trưng cho những người đắc thắng của Hội thánh . Giê-ru-sa-lem rộng lớn, còn Si-ôn nhỏ bé. Đồn lũy của Giê-ru-sa-lem là Si-ôn. Khi nào có điều gì liên quan đến nỗi ao ước của lòng Đức Chúa Trời, thì Si-ôn được đề cập. Khi nào có điều gì liên quan đến sự thất bại và tội lỗi của người Do Thái thì Giê-ru-sa-lem được nhắc đến. Đức Chúa Trời luôn luôn cho phép Giê-ru-sa-lem bị giày đạp, nhưng Ngài luôn luôn bảo vệ Si-ôn. Có Giê-ru-sa-lem Mới, nhưng sẽ không bao giờ có Si-ôn mới, vì Si-ôn không bao giờ trở nên cũ. Mỗi khi Cựu Ước nói về mối liên hệ giữa Si-ôn với Giê-ru-sa-lem, thì đều cho chúng ta thấy đặc tính, sự sống, phước hạnh và sự thiết lập Giê-ru-sa-lem đến từ Si-ôn. Trong 1 Các Vua 8:1, các trưởng lão ở tại Giê-ru-sa-lem, và rương chứng cớ ở tại Si-ôn. Thi Thiên 51:18 nói rằng Đức Chúa Trời làm điều tốt lành cho Si-ôn và xây dựng các vách tường Giê-ru-sa-lem. Thi Thiên 102:21 nói danh Chúa ở tại Si-ôn và sự ngợi khen Ngài ở tại Giê-ru-sa-lem. Thi Thiên 128:5 nói Chúa từ Si-ôn ban phước và sự tốt lành được thấy tại Giê-ru-sa-lem. Thi Thiên 135:21 nói Chúa cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem nhưng Chúa được chúc tụng từ Si-ôn. Trong Ê-sai 41:27 lời trước hết được công bố cho Si-ôn và rồi được rao giảng cho Giê-ru-sa-lem. Giô-ên 3:17 nói khi Đức Chúa Trời cư ngụ tại Si-ôn, Giê-ru-sa-lem sẽ thánh khiết.

Ngày nay Đức Chúa Trời đang tìm kiếm một trăm bốn mươi bốn ngàn người ở giữa Hội thánh  bị đánh bại, là những người sẽ đứng trên núi Si-ôn (Khải. 14). Đức Chúa Trời luôn luôn dùng một số ít tín đồ để truyền dòng chảy sự sống cho Hội thánh  và để phục hưng Hội thánh . Như Chúa từng làm trước đây, những người đắc thắng phải đổ máu họ ra trước khi sự sống có thể tuôn chảy đến người khác. Thay mặt cho Hội thánh , những người đắc thắng đứng ở vị trí đắc thắng, họ cũng chịu hoạn nạn và khinh miệt.

Như vậy, những người đắc thắng của Đức Chúa Trời cần từ bỏ những gì họ cho là đúng. Họ phải trả giá và để cho thập tự giá cắt bỏ toàn cõi sáng tạo cũ và xử lý các cửa Âm phủ (Mat. 16:18).

Anh em có bằng lòng chịu “đau lòng” để chiếm được lòng Đức Chúa Trời không? Anh em có bằng lòng để cho chính mình bị đánh bại hầu Chúa làm Người Chiến Thắng không? Khi sự vâng phục của anh em được trọn vẹn, Đức Chúa Trời sẽ xử lý mọi sự bất phục (2 Cô. 10:6).

(Chiều ngày 26 tháng giêng)

IV. CÔNG TÁC CỦA NGƯỜI ĐẮC THẮNG LÀ GÌ?

Kinh Thánh: G-ên 3:6, 8, 13, 15-17; 4:10-11, 15-18;
2 Cô. 4:10-12

Công Tác Của Người Đắc Thắng

Khi xem xét những người đắc thắng, chúng ta cần chú ý đến hai điều: (1) Đức Chúa Trời lựa chọn một ít người để thay cho tất cả những người thất bại. (2) Đức Chúa Trời làm cho thiểu số ấy thực hiện mạng lịnh của Đức Chúa Trời trước, rồi sau đó Ngài làm chính điều đó trong đa số còn lại.

Đức Chúa Trời lựa chọn người Israel làm vương quốc các thầy tế lễ giữa mọi dân (Xuất. 19:5-6), nhưng họ thất bại vì thờ bò con bằng vàng tại núi Si-nai. Sau đó Đức Chúa Trời lựa chọn các con trai Lê-vi, là những người làm theo mạng lịnh Ngài, làm những người đắc thắng của Ngài, với tư cách là những thầy tế lễ thay thế cho dân Israel (Xuất. 32:15-29).

Ban đầu Đức Chúa Trời dự định rằng toàn thể dân Israel đều làm thầy tế lễ. Nhưng vì họ thờ hình tượng, Đức Chúa Trời lập người Lê-vi làm thầy tế lễ thay thế dân Israel.

Trước hết Đức Chúa Trời hành động trên một số ít người. Sau đó Ngài hành động trên đa số dân chúng qua số ít ấy. Trước khi Đức Chúa Trời có thể giải cứu dân Israel, Ngài phải giải cứu Môi-se. Đức Chúa Trời phải giải cứu Môi-se ra khỏi Ai-cập trước khi Ngài có thể giải cứu dân Israel ra khỏi Ai-cập. Đức Chúa Trời phải xử lý Đa-vít để chiếm hữu ông trước, rồi Ngài mới có thể giải cứu dân Israel khỏi tay người Phi-li-tin và làm cho họ nên một dân tộc. Mọi mục tiêu thuộc linh phải được thực hiện bằng những phương tiện thuộc linh. Đức Chúa Trời phải xử lý Môi-se và Đa-vít đến mức họ không còn tìm cách thực hiện ý muốn Đức Chúa Trời bằng xác thịt mình hay sử dụng xác thịt để giúp đỡ Đức Chúa Trời.

Trước hết Đức Chúa Trời chiếm hữu mười hai người, rồi một trăm hai mươi người, và cuối cùng Ngài thành lập Hội thánh . Đức Chúa Trời cho phép một ít người mang lấy trách nhiệm mà đa số nên gánh vác nhưng không muốn gánh vác. Nguyên tắc những người đắc thắng là Đức Chúa Trời cho phép một vài người làm một điều gì đó để đem lại phước hạnh cho đa số còn lại. Ngài lập một vài người đứng trong sự chết để đa số nhận được sự sống. Đức Chúa Trời trồng thập tự giá vào trong lòng họ để họ kinh nghiệm nguyên tắc thập tự giá trong gia đình mình và môi trường mình. Kết quả của điều đó là sự sống được tuôn đổ vào trong những người khác. Đức Chúa Trời cần các ống dẫn sự sống để đổ sự sống ra cho những người khác.

Đứng Ở Chỗ Chết
Để Những Người Khác Nhận Được Sự Sống

Đức Chúa Trời đặt các thầy tế lễ tại chỗ chết để dân Israel có con đường đến đất sự sống. Các thầy tế lễ là những người đầu tiên xuống nước và là những người sau cùng lên khỏi nước. Họ là những người đắc thắng của Đức Chúa Trời. Ngày nay Đức Chúa Trời đang tìm kiếm một nhóm người giống như các thầy tế lễ thời xưa, bước xuống nước, tức là bước vào sự chết trước. Họ bằng lòng chịu thập tự giá xử lý trước, đứng ở chỗ chết để Hội thánh  tìm được con đường sự sống. Đức Chúa Trời trước hết phải đặt chúng ta vào chỗ chết trước khi người khác nhận được sự sống. Những người đắc thắng của Đức Chúa Trời là những người tiên phong của Đức Chúa Trời.

Các thầy tế lễ không thể tự mình làm gì bao nhiêu; họ chỉ khiêng rương chứng cớ. Họ phải khiêng rương chứng cớ và đi xuống giữa dòng nước. Chúng ta phải để cho Đấng Christ làm trung tâm, phải mặc lấy Đấng Christ, và đi xuống nước. Chân của các thầy tế lễ đứng dưới lòng sông trong khi vai họ khiêng rương chứng cớ. Họ đứng trong sự chết trong khi tôn cao Đấng Christ.

Đáy sông là chỗ chết; nơi ấy không thoải mái, hấp dẫn, hay an nghỉ. Họ không ngồi, hay nằm, mà đứng tại đó. Nếu tôi sống trong tánh nóng nảy của mình, Đấng Christ không thể sống trong người khác. Nếu tôi đứng tại đáy sông, những người khác sẽ vượt qua sông Giô-đanh cách đắc thắng. Sự chết hành động trong tôi, nhưng sự sống hành động trong những người khác. Nếu tôi chết trong sự thuận phục Đức Chúa Trời, sự sống sẽ hành động trong những người khác để làm cho họ cũng thuận phục Đức Chúa Trời. Sự chết của Đấng Christ hành động đem sự sống Ngài vào trong chúng ta. Không có sự chết thì không có sự sống.

Khiêng rương chứng cớ ở đáy sông thì phải chịu đựng rất nhiều. Họ phải rất cẩn thận. Nếu họ không cẩn thận, Đức Chúa Trời thánh khiết sẽ hủy diệt họ. Họ đứng đó quan sát người Israel lần lượt đi qua. Nhưng họ được chỉ định đi qua cuối cùng. Vị sứ đồ nói: “Đức Chúa Trời đã đặt chúng tôi là những sứ đồ ra sau cùng”; “đến nay chúng tôi đã trở nên rác rến của thế gian, cặn bã của muôn vật” (1 Cô. 4:9, 13). Ông ao ước mọi người sẽ tin vào phúc âm nhưng không giống như ông với đôi tay bị xiềng xích (Công. 26:29). Tôi có muốn được tiếng tốt, một đời sống thoải mái, hoặc được thông cảm không? Hay tôi muốn Hội thánh  của Đức Chúa Trời có được sự sống? Nguyện chúng ta có thể cầu nguyện: “Chúa ôi, xin cho con chết để những người khác có được sự sống”. Đức Chúa Trời đã nói rõ rằng đó không phải là điều dễ dàng. Nhưng chỉ bằng cách đó Đức Chúa Trời mới hoàn tất kế hoạch đời đời của Ngài được.

Trước khi lên khỏi đó, họ ở dưới lòng sông chờ đợi tất cả dân chúng đi qua. Chúng ta không thể ra khỏi sự chết trước khi vương quốc đến. Cuối cùng Giô-suê ra lệnh: “Các ngươi hãy lên khỏi [sông] Giô-đanh” (G-suê. 4:17). Giô-suê đắc thắng của chúng ta sẽ bảo chúng ta lên khỏi nước. Điều này sẽ xảy đến khi vương quốc bắt đầu.

Nhiều người không phải là không vâng lời; họ chỉ không vâng lời đủ. Không phải họ không trả giá, mà họ không trả giá đủ. Không phải họ không muốn chi tiền, hay họ không dấy lên một đạo quân, nhưng những gì họ làm không được đầy đủ (Lu. 14:25-35). Không trải qua thập tự giá, một người không thể đến được Ghết-sê-ma-nê. Không có sự xử lý của thập tự giá, một người không thể nói: “Ý Cha được nên”. Nhiều người thích sự kêu gọi của Áp-ra-ham, nhưng họ không thích sự dâng hiến trên núi Mô-ri-a.

Anh em có bao giờ ganh tị với những người có đời sống dễ chịu không? Đức Chúa Trời đã đặt chúng ta tại lòng sông để chúng ta làm những người đắc thắng của Ngài. Ngài đặt chúng ta trong xiềng xích để những người khác nhận được phúc âm. Sự chết hành động trong tôi, nhưng sự sống hành động trong những người khác. Đó là ống dẫn sự sống duy nhất. Sự sống chảy vào trong chúng ta đã trải qua hai ống dẫn, Phao-lô và Martin Luther. Trước hết sự chết của Chúa đã đầy dẫy chúng ta bằng sự sống, và sau đó sự sống ấy chảy đến những người khác (2 Cô. 4:10-12).

Công tác những người đắc thắng của Đức Chúa Trời là đứng trên sự chết của Đấng Christ để những người khác nhận được sự sống. Trước hết lời Kinh Thánh phải được chúng ta thực tại hóa rồi sau đó chúng ta mới có thể rao giảng lời ấy. Ánh sáng của lẽ thật trước hết phải trở nên sự sống đối với chúng ta trước khi trở nên ánh sáng cho người khác. Đức Chúa Trời làm cho những người đắc thắng của Ngài thấy một lẽ thật, và làm cho vững chắc lẽ thật ấy trước khi Ngài có được một vài người khác vâng phục lẽ thật ấy. Lẽ thật trước hết phải được kết cấu trong chúng ta và trở nên một phần của con người chúng ta. Chính chúng ta trước hết phải kinh nghiệm đức tin, sự cầu nguyện, và sự dâng mình rồi mới có thể nói với người khác đức tin, cầu nguyện, dâng mình nghĩa là gì. Nếu không, chúng ta chỉ có từ ngữ mà không có nội dung. Đức Chúa Trời muốn chúng ta trải qua sự chết trước, sau đó Ngài sẽ ban sự sống cho những người khác. Trước hết chúng ta phải trải qua hoạn nạn và đau đớn rồi người khác mới có sự sống. Để học lẽ thật của Đức Chúa Trời, một người phải đứng ở đáy sông trước. Lý do Hội thánh  không thể dành được chiến thắng bằng cách băng qua mà đến đất hứa là vì thiếu những thầy tế lễ đứng ở đáy sông Giô-đanh. Những ai đứng ở đáy sông Giô-đanh sẽ tạo nên tấm lòng đói khát trong những người khác. Nếu một lẽ thật được kết cấu trong chúng ta cách sâu xa, lẽ thật ấy sẽ lôi cuốn những người khác theo đuổi nó. Ngày nay, nhiều lẽ thật của Đức Chúa Trời cần được kết cấu trong con người. Khi chúng ta để cho một lẽ thật kết cấu trong mình, chúng ta đang để cho Thân Thể của Đấng Christ lớn lên “thêm một phân”. Những người đắc thắng là những người nhận được sự sống từ trên cao để cung ứng cho Thân Thể.

(Chiều ngày 27 tháng giêng)

V. KINH NGHIỆM CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐẮC THẮNG

Ai là những người đắc thắng của Đức Chúa Trời? Những người đắc thắng là những người để cho “bản ngã” của mình ở lại trong chỗ chết hầu những người khác có được sự sống. Những người ấy giống như các thầy tế lễ khiêng rương chứng cớ qua sông Giô-đanh, là những người mà chính họ đứng ở chỗ chết để dân của Đức Chúa Trời có thể đi qua. Tại đây sự chết có ý nghĩa gì? Đứng ở chỗ chết có nghĩa là gì? Đó là điểm rất quan trọng liên quan đến sự tiến lên của dân Đức Chúa Trời. Đó là điều mà ngày nay Đức Chúa Trời quan tâm hơn hết. Vì lý do ấy, đó cũng là điều chúng ta phải hết sức quan tâm.

Không phải các lẽ thật trong Kinh Thánh được sắp đặt lại với nhau cách vụn vặt. Đằng sau mỗi lẽ thật đều có một điều gì đó sống động. Văn tự của lẽ thật thì chết chóc, nó không có sự sống. Để lẽ thật trở nên sống động, cần phải có một linh sống động. Nhiều lẽ thật trong Kinh Thánh được loài người đọc, rao giảng, và tin cậy. Nhưng những lẽ thật này cần được kinh nghiệm, tiếp xúc và biến đổi thành sự sống trước khi chúng trở nên đầy quyền năng đối với chúng ta. Nhiều người nghĩ rằng những ai thông minh hơn sẽ nhận được nhiều lẽ thật Kinh Thánh hơn người khác, hoặc sẽ hiểu những điều thuộc về Đức Chúa Trời hơn. Điều đó hoàn toàn sai. Những lẽ thật thuộc linh không bị giới hạn bởi sự khôn ngoan thiên nhiên của chúng ta. Nhiều người nghĩ họ có thể giúp người khác bằng cách đạt được điều gì đó bằng năng lực và sự khôn ngoan riêng của mình và truyền đạt chính điều đó cho người ta. Thật ra, làm như vậy họ không truyền sự sống cho người khác.

Giăng chương 1 nói Chúa là ánh sáng của sự sống. Nhiều người nghĩ hễ họ hiểu một lẽ thật và rao giảng lẽ thật ấy thì ổn thỏa rồi. Họ nghĩ lẽ thật là lẽ thật và lẽ thật không cần liên hệ gì đến chính con người họ. Nhưng đó không phải là đường lối của Đức Chúa Trời. Đường lối của Ngài ấy là trước hết Ngài cho lẽ thật kết cấu trong một con người, để lẽ thật trở nên một phần của cấu tạo người ấy trước khi người ấy rao giảng lẽ thật cho người khác. Một người cần được xử lý, cắt cho mở ra, và dầm thấm lẽ thật cách sâu xa trước khi có thể truyền đạt lẽ thật cho người khác. Nếu một lẽ thật chưa bao giờ đi qua công tác cấu tạo của Đức Chúa Trời, lẽ thật ấy sẽ không sinh ra một ảnh hưởng nào trên người ta.

Tôi xin đưa ra một vài hình ảnh minh họa.

Đức Tin

Điều đầu tiên là đức tin. Đức tin là gì? Không phải anh em biết đức tin vào ngày thứ bảy rồi rao giảng về đức tin vào Chúa nhật. Có thể anh em có văn tự nhưng không thấy chính sự việc. Điều này cũng giống như nói chuyện với những người thuộc thời đại sơ khai về đèn điện. Họ có thể biết từ ngữ ấy nhưng không bao giờ thấy chính điều đó. Họ có thể hành động như là mình hiểu biết. Nhưng thật ra, họ không biết ánh sáng điện là gì.

Vì vậy trước hết Đức Chúa Trời phải xử lý anh em qua các sự việc; trước hết anh em phải được xử lý về vấn đề đức tin và cho phép đức tin của Đức Chúa Trời được cấu tạo trong mình trước khi có thể truyền đạt cho người khác những gì đã được cấu tạo trong mình. Chỉ khi ấy anh em mới có thể giúp đỡ người khác. Chỉ khi sự chết hành động trong anh em thì sự sống mới hành động trong người khác.

Sự Cầu Nguyện

Kế đến, chúng ta hãy xem xét về sự cầu nguyện. Dạy người khác cầu nguyện không phải là vấn đề chuẩn bị hay soạn một vài giáo lý về sự cầu nguyện. Đức Chúa Trời phải đem anh em qua nhiều hoàn cảnh rồi Ngài mới có thể dạy anh em bài học cầu nguyện. Chỉ sau nhiều kinh nghiệm như vậy anh em mới có thể chỉ cho người khác cách cầu nguyện. Trong mọi sự, trước hết anh em phải là thí điểm của Đức Chúa Trời.

Sự cầu nguyện chân chính đòi hỏi tôi nhiều sức lực hơn là giảng dạy. Nhiều khi chúng ta nghĩ nếu mình giảng một bài thật tốt, thì mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhưng chúng ta phải nhận biết chỉ khi nào mình đã cầu nguyện cách thấu đáo, điều mình giảng mới tuôn chảy vào trong người khác.

Những gì chúng tôi đã đề cập trên đây là nguyên tắc của Đức Chúa Trời. Nguyên tắc này cho thấy một người phải trải qua hoạn nạn và phải trả giá để có kinh nghiệm rồi mới có thể truyền thông lẽ thật cho người khác. Những người như vậy là những người đắc thắng theo lòng ao ước của Đức Chúa Trời.

Sự Dâng Mình

Một lần nữa, chúng ta hãy lấy vấn đề dâng mình để minh họa. Sự dâng mình tuyệt đối là gì? Kinh Thánh nói về điều này và người ta [cũng] nói về điều này. Nhưng nhiều người chỉ có văn tự mà không thấy chính sự dâng mình. Cũng giống như một người đọc tự điển; người ấy có thể đọc những chữ trong tự điển, nhưng không biết các chữ ấy chỉ về điều gì. Điều này cũng đúng đối với Hội thánh  của Đức Chúa Trời. Một ngày kia khi Đức Chúa Trời so sánh gia đình, công việc, của cải, nghề nghiệp, và những người thân yêu của anh em với Đấng Christ, anh em sẽ nhận biết sống cho Chúa có nghĩa là gì? Anh em sẽ chọn lựa điều nào? Anh em sẽ chọn Đấng Christ hay một điều khác? Anh em có mặc cả với Đức Chúa Trời không? Anh em không thể có được một lẽ thật nào mà không phải trả giá. Tôi e rằng nhiều người học lẽ thật mà không kinh nghiệm lẽ thật.

Lẽ Thật Cần Được Cấu Tạo Trong Người Hầu Việc Chúa

Nơi anh em có bao nhiêu lẽ thật chưa từng được cấu tạo trong [con người anh em]? Bao nhiêu điều anh em biết nhưng chưa từng được thực tại hóa? Qua điều này chúng ta thấy ngày nay thậm chí người ta không biết sự vâng phục là gì, sự cầu nguyện là gì và đức tin là gì. Không có con đường tắt nào để học các lẽ thật của Đức Chúa Trời. Chính hạt giống sẽ quyết định loại cây nào cuối cùng sẽ mọc lên. [Tình trạng] người hầu việc Chúa ra sao sẽ quyết định những con người mà anh ấy đang công tác [chăm sóc] sẽ trở nên như thế nào? Nếu anh em không phải là người nghiêm túc, trái mà anh em sinh sản chắc chắn cũng sẽ không nghiêm túc. Nếu anh em là người chín chắn, anh em cũng sẽ kết trái chín chắn. Anh em là loại người nào sẽ quyết định loại trái mà anh em sản sinh. Tôi đã từng thấy người ta rao giảng giáo lý “chết với Đấng Christ”, “sống với Đấng Christ” và “thăng thiên với Đấng Christ”, nhưng con người ấy không liên quan gì đến các vấn đề thuộc linh mà mình đang nói đến.

Có một lần tôi hỏi chị Barber làm thế nào một người có thể tạo ra được cảm nhận về nhu cầu sự sống bên trong người khác và làm phát sinh một sự đói khát trong họ. Chị đáp: “Một mặt, điều này tùy thuộc vào Đức Chúa Trời, nhưng mặt khác có những điều chính những người hầu việc Chúa phải chịu trách nhiệm”. Bây giờ chúng ta không xem xét phương diện của Đức Chúa Trời. Về phương diện những người hầu việc Chúa, họ có tạo được trong người khác sự đói khát thuộc linh hay không thì không tùy thuộc vào những gì họ nói nhưng tùy thuộc vào việc họ là người như thế nào. Khi một người có trình độ cao được đặt cạnh người không tiến bộ bao nhiêu, người ấy sẽ tự phát nhận biết sự “lạc hậu” của mình. Khi một người vâng phục được đặt cạnh một người không vâng phục, người không vâng phục sẽ tự phát nhận biết sự không vâng phục của mình. Cũng vậy, khi một người thánh khiết được đặt cạnh người bất khiết, người bất khiết sẽ tự phát nhận ra sự bất khiết của mình. Nếu anh em không phải là loại người ấy, anh em không thể tạo ra loại đói khát ấy trong người khác”.

Bản chất mà chúng ta thừa kế trong sự tái sinh có khuynh hướng bắt chước. Nếu anh em đặt bản chất ấy trước sự thánh khiết, tự phát bản chất ấy sẽ hướng về sự thánh khiết. Nếu anh em đặt bản chất ấy trước sự vâng phục, tự phát bản chất ấy sẽ học vâng phục. Chúng ta phải là nhóm người đi đầu trong sự tăng trưởng trước mặt Đức Chúa Trời. Ngày nay Đức Chúa Trời đang thu hút những người khác đến bờ sông qua kinh nghiệm thập tự giá và sự chịu khổ trong đời sống những người đắc thắng. Những người bước xuống nước trước là các thầy tế lễ; họ đi đầu trong việc đứng dưới nước sự chết. Những người đắc thắng là những người tiên phong; họ mở ra một con đường giữa bóng tối và đi đầu vào trong sự chết. Chỉ bằng cách đó họ mới có thể giúp những người khác trải qua [kinh nghiệm ấy] y như họ đã trải qua.

Hầu hết các tín đồ trong quá khứ đều vấp ngã trên đường. Nhưng các tín đồ ngày nay được cho biết trước con đường mà qua đó những người khác đã vấp ngã. Tất cả những gì họ phải làm ngày nay là vâng lời và để cho lẽ thật đã rao giảng được cấu thành trong chính bản thể mình. Đó là những người có rương chứng cớ trên vai, chân đặt trên đất, và đứng vững tại chỗ chết. Chỉ bằng cách mang Đấng Christ trên vai như vậy chúng ta mới có thể trở nên những người đắc thắng của Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời không thể chiếm hữu chúng ta như một nhóm những người đắc thắng, Ngài sẽ phải tìm những người khác.

Mỗi khi thập tự giá đến trên anh em, hay mỗi khi Đức Chúa Trời xử lý anh em, anh em bằng lòng chấp nhận sự xử lý hay bỏ chạy? Đó là vấn đề quan trọng ngày nay.

(Chiều ngày 28 tháng giêng)

VI. SỰ TUYỂN CHỌN NHỮNG NGƯỜI ĐẮC THẮNG

Kinh Thánh: Quan. 6:1-6, 11-35; 7:1-8, 19-25; 8:1-4

Bây giờ chúng ta bàn đến vấn đề lựa chọn những người đắc thắng, cách phân rẽ những người đắc thắng khỏi những người không đắc thắng.

Dân Số Ký nói rằng mỗi người nam của Israel từ hai mươi tuổi trở lên phải là một chiến sĩ đi đánh trận cho Chúa. Vào thời Các Quan Xét, người Israel đã thất bại. Để giải cứu tất cả người Israel, Đức Chúa Trời phải lựa chọn ba trăm người để đánh trận chiến mà những người khác lẽ ra phải đánh nhưng đã không đánh. Những người khác đã thất bại và không còn đánh trận cho Đức Giê-hô-va nữa. Nhiều người biết cách giữ gìn đức tin và hoàn tất cuộc đua, nhưng họ không biết cách đánh trận tốt lành.

Làm Thế Nào Để Trở Nên Một Người Đắc Thắng — Ghi-đê-ôn

1. Nhận Biết Chính Mình Là Kẻ Nhỏ Nhất:
Nhận Biết Bản Ngã

Khiêm nhường trước mặt Đức Chúa Trời là điều dễ, nhưng khiêm nhường trước mặt con người khi sánh mình với những người khác là điều rất khó. Nói rằng: “Tôi là người nhỏ nhất” thì dễ, nhưng nói: “Tôi là người nhỏ nhất trong nhà cha tôi” thì không dễ. Nói rằng: “Gia đình tôi nghèo” là điều dễ, nhưng nói: “Trong chi phái Ma-na-se, gia đình tôi nghèo” thì không dễ (Quan. 6:15). Những người đắc thắng không thấy vẻ sáng láng trên mặt mình, dầu người khác có thể thấy. Tất cả những ai thấy vẻ sáng láng trên mặt mình trong gương đều không phải là những người đắc thắng. Dầu Đa-vít đã được xức dầu, ông vẫn coi mình là một con chó. Những người đắc thắng có thực tại của người đắc thắng hơn là chỉ có danh nghĩa của người đắc thắng.

2. Thấy Khải Tượng Thiên Thượng:
Thấy Chúa

Không ai có thể công tác mà không có khải tượng. Nếu một người có khải tượng, dầu có thể gặp khó khăn, người ấy vẫn đạt đến mục tiêu của mình. Khi có lời Chúa, chúng ta có thể băng qua bờ bên kia. Khi có khải tượng, bước chân chúng ta sẽ vững vàng trong công tác của mình.

3. Nhìn Thấy Khải Tượng Và Không Bất Tuân Khải Tượng:
Đáp Ứng Sự Kêu Gọi Của Chúa
Bằng Cách Dâng Những Sinh Tế

Chúng ta cần dâng chính mình, thậm chí những gì chúng ta cho là nhỏ nhất, vào tay Đức Chúa Trời. Chúng ta thấy mình lớn hay nhỏ là điều không quan trọng. Nếu chúng ta không đặt mình vào tay Đức Chúa Trời, cả hai tình trạng đều vô ích như nhau. Tất cả những sinh tế sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời đều được Đức Chúa Trời chấp nhận. Những người đắc thắng được Đức Chúa Trời kêu gọi. Anh em có nghe và đáp ứng tiếng kêu gọi những người đắc thắng trong Khải Thị chương hai và ba không?

4. Phá Đổ Hình Tượng:
Lập Chứng Cớ Bên Ngoài

Sau khi đã dâng mình trong lòng, một người vẫn cần phá đổ những hình tượng để lập một chứng cớ bên ngoài. Chúng ta cần nhận biết chính mình, gia đình mình, và những người mình tiếp xúc. Bất cứ điều gì chiếm chỗ ngang hàng với Đức Chúa Trời cần phải bị phá đổ. Chỉ những ai đã thấy Đức Chúa Trời mới biết hình tượng là gì. Chỉ những ai đã thấy Thiên sứ của Đức Chúa Trời, tức là Chúa, mới biết bất cứ điều gì ngoài Chúa đều là hình tượng. Chỉ sau khi thấy Thiên sứ của Đức Chúa Trời, người ấy mới nhận biết hình tượng bằng gỗ không phải Đức Chúa Trời. Sinh tế trên tảng đá (Quan. 6:21) dành cho cá nhân, nhưng sinh tế trên bàn thờ (c. 24) dành cho quần chúng.

Sau khi đã trải qua bốn bước này, Thánh Linh đến trên Ghi-đê-ôn. Sự đầy dẫy Thánh Linh không đến do kết quả của lời cầu nguyện xin quyền năng. Khi một người đứng trong tình trạng đúng đắn, Thánh Linh sẽ đến trên người ấy.

Tiếng kèn vang lên (c. 34) là tiếng kêu gọi những người khác gia nhập hàng ngũ những người đắc thắng. Những người đắc thắng không nên hành động cách độc lập. Chúng ta nên phân rẽ mình khỏi những người bị đánh bại, nhưng không nên phân rẽ mình khỏi những người đắc thắng khác.

Phương Cách Tuyển Chọn Những Người Đắc Thắng — Ba Trăm Người

1. Sự Tuyển Chọn Thứ Nhất

Sự tuyển chọn thứ nhất đưa đến kết quả hai mươi hai ngàn người ra về. Họ bỏ về vì (1) muốn tôn vinh chính mình. Chúng ta bằng lòng từ bỏ sự sống mình nhưng không chịu từ bỏ vinh hiển của mình. Không những chúng ta phải đắc thắng Sa-tan, mà cũng phải đắc thắng chính mình. Đức Chúa Trời chỉ muốn những ai công tác cho Ngài mà không khoe khoang về công tác ấy. Sau khi làm việc cho Đức Chúa Trời, chúng ta chỉ nên nói: “Chúng tôi là những nô lệ vô ích” (Lu. 17:10). Chúng ta nên quên mình đã cày bao nhiêu [ruộng], đã chăn bao nhiêu chiên. Đức Chúa Trời không thể chia vinh hiển Ngài cho chúng ta. Nếu vẫn mong một điều gì đó cho chính mình, chúng ta sẽ bị loại bỏ. Những người này cũng bỏ về vì (2) họ sợ hãi và e ngại (G-suê. 7:3). Những ai sợ hãi và e ngại sẽ bị yêu cầu rời khỏi hàng ngũ. Chúng ta không được yêu mình nhưng phải chịu khổ. Nỗi khổ lớn nhất không phải là nỗi khổ về vật chất mà là nỗi khổ thuộc linh. Những ai muốn tôn vinh chính mình, sợ hãi và e ngại sẽ bị loại bỏ. Sự đắc thắng không tùy thuộc vào số lượng nhân sự, nhưng tùy thuộc vào sự nhận biết Đức Chúa Trời.

2. Sự Lựa Chọn Thứ Hai

Sự lựa chọn lần này dựa trên một vấn đề rất nhỏ, ấy là uống nước. Việc nhỏ luôn luôn phơi bày chúng ta là ai. Vào thời ấy cả người Do Thái lẫn người Ả-rập đều mang hành lý trên lưng khi di chuyển. Có hai cách uống nước khi đi đường. Một là để hành lý xuống và quì gối, cúi người sát đất để uống bằng miệng. Hai là vẫn để hành lý trên lưng và uống bằng cách vốc nước đưa lên miệng. Người ta uống theo cách thứ hai để tiết kiệm thời gian cho cuộc hành trình và cũng để bảo vệ mình khỏi trộm cướp. Giữa mười ngàn người, chín ngàn bảy trăm người uống nước trực tiếp bằng miệng, trong khi ba trăm người uống bằng cách vốc nước trong tay và đưa lên miệng. Đức Chúa Trời loại bỏ những người uống nước trực tiếp bằng miệng. Người nào dùng tay đưa nước lên miệng uống thì được Ngài lựa chọn. Người có cơ hội hưởng thụ nhưng không hưởng thụ là người đã được thập tự giá xử lý. Đức Chúa Trời có thể sử dụng loại người này. Đức Chúa Trời chỉ có thể dùng những người bằng lòng chịu thập tự giá xử lý vô điều kiện.

Đức Chúa Trời lựa chọn những người đắc thắng theo ba điều kiện: (1) tuyệt đối vì vinh hiển của Ngài, (2) không sợ hãi điều gì, và (3) để cho thập tự giá xử lý bản ngã. Mỗi người đều có thể tự đánh giá mình có phải là người đắc thắng không. Đức Chúa Trời sẽ thử nghiệm chúng ta, và chúng ta sẽ bị phơi bày xem mình có phải là người đắc thắng hay không. Chỉ những ai biết chiến thắng của thập tự giá mới duy trì được chiến thắng của thập tự giá.

Sự Hiệp Nhất Của Những Người Đắc Thắng

Đức Chúa Trời giao cho Ghi-đê-ôn ba trăm người và làm cho họ nên một thân thể. Sự chiến thắng của cá nhân không đúng đắn. Ghi-đê-ôn và ba trăm người ấy đồng lòng chuyển động và hành động. Xác thịt của họ bị cắt bỏ hoàn toàn cho nên họ có thể làm một. Đó là sự hiệp một trong Linh và là một sinh hoạt trong Thân Thể. Tân Ước ghi lại các buổi nhóm hơn là ghi lại công tác.

Kết Quả

Ba trăm người đánh trận, nhưng cả hội chúng đánh đuổi kẻ thù. Ba trăm người lao khổ, nhưng cả hội chúng thâu hoạch mùa màng. Khi chúng ta đắc thắng, cả Thân Thể được phục hưng. Đứng dưới lòng sông không phải vì chính mình, nhưng vì cả Thân Thể. “Tôi... ở trong xác thịt mình [mà] bù vào chỗ còn thiếu về sự khốn khổ của Christ cho Thân Thể Ngài tức Hội thánh ” (Côl. 1:24). Để làm người đắc thắng, chúng ta cũng phải chịu đựng những lời lằm bằm của người ta, giống như Ghi-đê-ôn chịu đựng lời lằm bằm của người Ép-ra-im. Không những Ghi-đê-ôn đánh bại người Ma-đi-an bên ngoài, mà ông còn đánh bại người Ma-đi-an ở bên trong. Chỉ có loại người này mới có thể tiếp tục đắc thắng. Họ “vẫn cứ rượt theo quân nghịch, dầu yếu mệt” (Quan. 8:4b).

(Chiều ngày 29 tháng giêng)

VII. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA NGƯỜI ĐẮC THẮNG

Kinh Thánh: Mat. 18:18; Êph. 6:12-13; 1:20-22; 26; Mác 11:23-24

Lời Cầu Nguyện Có Uy Quyền — Cầu Nguyện Bằng Uy Quyền

Để có thể làm người đắc thắng, chúng ta phải học cầu nguyện bằng uy quyền nhờ sử dụng uy quyền của Đấng Christ. Trong Kinh Thánh, cầu nguyện không chỉ là nài xin mà còn là đại diện cho uy quyền. Cầu nguyện là ra lệnh bằng uy quyền.

Người đắc thắng của Đức Chúa Trời trước hết phải trung tín từ chối bản ngã, thế gian và Sa-tan. Trước hết chúng ta cần phải để Đức Chúa Trời dùng thập tự giá đánh bại chúng ta, tức là chúng ta cần phải để chính mình bị đánh bại trước mặt Đức Chúa Trời. Thứ hai, chúng ta phải biết cách sử dụng uy quyền của Đấng Christ. Chúng ta phải vận dụng uy quyền của Đấng Christ để đánh bại Sa-tan, tức là chúng ta phải chiến thắng Sa-tan. Lời cầu nguyện có uy quyền không phải là nài xin mà là ra lệnh. Có hai loại cầu nguyện: cầu nguyện nài xin và cầu nguyện ra lệnh. Ê-sai 45:11 nói: “Hãy ra lệnh cho Ta”. Chúng ta có thể ra lệnh cho Đức Chúa Trời làm một điều gì đó. Đó là lời cầu nguyện ra lệnh.

Lời cầu nguyện ra lệnh bắt đầu từ khi Đấng Christ thăng thiên. Sự chết và sự phục sinh của Đấng Christ giải quyết bốn nan đề lớn của Đức Chúa Trời. Sự chết của Đấng Christ giải quyết mọi nan đề trong A-đam. Sự phục sinh của Ngài ban cho chúng ta một địa vị mới. Sự thăng thiên của Ngài đặt chúng ta ngồi trên các từng trời, vượt trên mọi bậc cai trị, uy quyền, thế lực, chủ quyền, và mọi danh được đặt ra, không những trong thời đại này, mà cả trong thời đại sắp đến nữa. Ê-phê-sô chương 1 nói về sự thăng thiên của Đấng Christ vượt trên mọi chủ quyền và thế lực. Chương hai nói về sự kiện chúng ta cũng được đồng ngồi trên các từng trời với Ngài. Vì vậy, cũng như Đấng Christ vượt trên mọi bậc cai trị và uy quyền, chúng ta cũng vượt trên mọi bậc cai trị và uy quyền.

Ê-phê-sô chương 1 cho chúng ta biết vị trí của Đấng Christ là ở trên các từng trời. Chương 2 cũng nói với chúng ta về vị trí của chúng ta trong Đấng Christ, ấy là chúng ta được đồng ngồi với Đấng Christ trong cõi thiên thượng. Chương sáu nói về những gì chúng ta làm trong cõi thiên thượng. Chúng ta phải ngồi trong cõi thiên thượng và cầu nguyện bằng cách nói lên những lời cầu nguyện ra lệnh với uy quyền của sự đắc thắng của Đấng Christ.

Lời cầu nguyện bình thường là lời cầu nguyện từ đất hướng lên trời. Lời cầu nguyện ra lệnh là lời cầu nguyện từ trời hướng xuống đất. Ma-thi-ơ chương 6 là lời cầu nguyện nài xin, từ dưới hướng lên. Ê-phê-sô chương 6 là lời cầu nguyện ra lệnh, từ trên hướng xuống. Chúng ta đang ngồi trong cõi thiên thượng đưa ra những lời cầu nguyện ra lệnh. A-men trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa “chắc chắn là như vậy”. Đó là một mạng lệnh. Từ đầu các trận chiến, Sa-tan tìm cách đánh bật chúng ta ra khỏi vị trí đắc thắng của mình trên cõi thiên thượng. Đánh trận có nghĩa là chiến đấu để được vị trí của mình, trong khi chiến thắng có nghĩa là chiếm hữu vị trí của mình. Trong Đấng Christ, chúng ta ngồi trong vị trí thiên thượng và có thể cầu nguyện lời cầu nguyện uy quyền.

Các từ ngữ “vì lý do ấy” trong Mác 11:24 cho thấy câu 23 cũng nói về sự cầu nguyện. Nhưng câu 23 không bảo chúng ta hãy cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Câu này chỉ nói: “Ai nói với núi này”, tức là ra lệnh cho núi. Đó không phải là nói trực tiếp với Đức Chúa Trời, nhưng đó vẫn là lời cầu nguyện, lời cầu nguyện ra lệnh. Đó không phải là xin Đức Chúa Trời làm một điều gì, mà là sử dụng uy quyền của Đức Chúa Trời để “xử lý” núi, là những điều cản trở chúng ta. Đức tin tuyệt đối đến từ một sự hiểu biết tuyệt đối về ý muốn của Đức Chúa Trời. Chỉ với đức tin này chúng ta mới có thể nói với núi. Chúng ta ra lệnh những gì Đức Chúa Trời đã ra lệnh rồi và quyết định những gì Đức Chúa Trời đã quyết định rồi. Chúng ta có đức tin nhờ hiểu biết đầy đủ về ý muốn của Đức Chúa Trời.

Mối Liên Hệ Giữa Những Lời Cầu Nguyện Có Uy Quyền Và Những Người Đắc Thắng

Đấng ngồi trên ngai là Đức Chúa Trời, tức là Chúa. Kẻ ở dưới ngai là kẻ thù. Lời cầu nguyện liên kết chúng ta với Đức Chúa Trời. Những người đắc thắng, tức những người trị vì và cai quản, biết cách cầu nguyện và sử dụng uy quyền của ngai Đức Chúa Trời. (Uy quyền của ngai Đức Chúa Trời cai trị thế giới). Chúng ta có thể hướng về ngai và áp dụng uy quyền tại đó để gọi một anh em đến (Hudson Taylor đã làm điều đó trước đây). Để cai trị trên Hội thánh , thế gian và các bậc uy quyền trong cõi thiên thượng, những người đắc thắng phải sử dụng uy quyền của ngai. Tại Anh, cách đây khoảng mười năm, một vài anh em đã áp dụng uy quyền của ngai để chi phối những sự thay đổi trong xã hội. Đó là cai trị trên các quốc gia. Chiến trận thuộc linh không những có tính cách phòng thủ mà còn có tính cách tiến công. Không những chúng ta cai trị trên các nước mà còn cai trị Âm phủ và mọi bậc cai trị, uy quyền, thế lực và chủ quyền. Nguyện Đức Chúa Trời cho chúng ta biết cách vận dụng uy quyền của Đấng Christ. Mọi sự đều ở dưới chân Đấng Christ. Ngài là Đầu của Hội thánh . Khi chúng ta sử dụng uy quyền của Đấng Christ, mọi sự cũng sẽ ở dưới chân chúng ta.

Ma-thi-ơ 18:18-19 nói về sự cầu nguyện. “Dưới đất” và “trên các từng trời” trong câu 19 cho chúng ta thấy lời cầu nguyện trong câu 18 là một mạng lịnh. Sự cầu nguyện này là một sự thực thi, chứ không phải là lời nài xin. Đó là cột trói và tháo mở, chứ không phải nài xin Đức Chúa Trời cột trói và tháo mở. Lời cầu nguyện ra lệnh có hai phương diện. Phương diện thứ nhất là cột trói. Chúng ta phải cột trói các anh chị em không hành xử đúng đắn trong các buổi nhóm. Chúng ta phải cột trói thế gian ngăn cản công tác. Chúng ta phải cột trói các quỉ và các ác linh, và chúng ta phải cột trói Sa-tan với mọi công việc của hắn. Chúng ta được làm vua và cai trị trên mọi sự. Khi nào có một điều gì sai trật trên thế giới hay giữa vòng các anh em, đó là lúc chúng ta cai trị như những vị vua. Phương diện thứ hai của lời cầu nguyện ra lịnh là tháo mở. Chúng ta phải là những người tháo mở cho người khác. Chúng ta phải tháo mở cho các anh em thối lui. Chúng ta phải tháo mở cho các anh em cần được tự do để công tác. Chúng ta phải tháo mở [túi] tiền của người ta [để họ dâng] cho Đức Chúa Trời. Chúng ta phải tháo mở lẽ thật của Đức Chúa Trời. Chúng ta là những đại sứ được Đức Chúa Trời sai đi. Dưới đất này, chúng ta nên vui hưởng quyền “bất khả xâm phạm về ngoại giao”. Chúng ta có thể kêu gọi trời thống trị đất này.

(Chiều ngày 30 tháng giêng)

NHỮNG NGƯỜI ĐẮC THẮNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI NÊN LÀM GÌ VÀO CUỐI THỜI ĐẠI NÀY

Kinh Thánh: Sáng. 3:14-15; Khải. 12:1-11

Hai phân đoạn chúng ta đọc hôm nay tương ứng với nhau. Một phân đoạn ở đầu Kinh Thánh trong khi phân đoạn kia ở cuối Kinh Thánh. Trong Sáng Thế Ký chương 3 chúng ta có (1) con rắn, (2) người nữ, và (3) dòng dõi [người nữ]. Trong Khải Thị chương 12 chúng ta có (1) con rắn, (2) người nữ, và (3) người con trai.

Lời Đức Chúa Trời Công Bố Trên Con Rắn

Sáng Thế Ký chương 3 bàn đến lời Đức Chúa Trời tuyên bố về con người và con rắn sau sự sa ngã. Chương này cũng bàn đến sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời. “Ngươi sẽ bò bằng bụng” có nghĩa là Đức Chúa Trời giới hạn công tác của Sa-tan trên đất; hắn không còn có thể hành động khắp vũ trụ. “Ngươi sẽ ăn bụi đất trọn các ngày của đời ngươi” có nghĩa là Đức Chúa Trời giới hạn Sa-tan chỉ ăn loài người bụi đất. Đức Chúa Trời ấn định rằng tất cả dòng dõi của A-đam là thức ăn cho Sa-tan.

“Người nữ” là mẹ của cả loài người. Như vậy, người nữ tượng trưng cho toàn thể những người mà Đức Chúa Trời dự định cứu rỗi.

“Dõng dõi người nữ” nghĩa là Đấng Christ. Khi Đấng Christ ở trên đất, Ngài giày đạp đầu con rắn. Đầu là phần quan trọng của thân thể. Chúa đã “đập giập” quyền lực trọng yếu của Sa-tan.

Con rắn cắn bầm gót chân Ngài nghĩa là Sa-tan làm công tác của hắn sau lưng Đấng Christ. Sau khi Đấng Christ làm bầm giập đầu con rắn, Ngài đi tới, trong khi con rắn hành động sau lưng Ngài. Đó luôn luôn là cách hắn hành động trong các tín đồ — đằng sau lưng họ.

“Dòng dõi người nữ” chỉ về cá nhân Đấng Christ, cũng chỉ về Đấng Christ tập thể. Những người dự phần vào sự phục sinh của Đấng Christ là dòng dõi người nữ. Chúa được sinh ra bởi người nữ và không có bản chất A-đam. Cũng vậy, con người mới, được tái sinh trong các tín đồ không có bản chất A-đam ở bên trong. Đấng Christ là Con Đức Chúa Trời, và con người mới cũng là con của Đức Chúa Trời. Đấng Christ không ra từ xác thịt, con người mới cũng không ra từ xác thịt hay ý người.

Bắt đầu từ Sáng Thế Ký chương 3, cả Đức Chúa Trời lẫn con người đều đặt hi vọng nơi dòng dõi người nữ. Sa-tan cũng chú ý nhiều đến dòng dõi người nữ. Đó là lý do vì sao hắn cố gắng khuấy động Hê-rốt giết Chúa, vì sao hắn cám dỗ Chúa trong đồng hoang và vì sao hắn bắt bớ Ngài suốt ba năm rưỡi. Nhưng trong mọi hoàn cảnh Chúa đều đắc thắng.

Người Đắc Thắng Xử Lý Con Rắn

Khải Thị từ chương 4 đến chương 11 là một phần. Chương mười lăm đến hết là một phần khác. Chương mười hai đến chương mười bốn là phần xen vào như phần chú thích cho những chương đi trước, chứ không hình thành một phần chính. Chương mười hai là phần tiếp theo của chương 2 và 3. Hai chương này đề cập đến “sự đắc thắng” bảy lần, trong khi chương 12 nói: “họ đã đắc thắng hắn”. Chương 2 và 3 đề cập đến sự kêu gọi những người đắc thắng vào thời điểm mà phần lớn Hội thánh  đã thất bại, trong khi chương mười hai nói những người đắc thắng này là ai và họ đã làm gì. Khải Thị 2:27 nói rằng những người đắc thắng sẽ cai trị các nước bằng một cây gậy sắt, trong khi 12:5 nói người con trai sẽ cai trị trên các nước bằng một cây gậy sắt. Những người đắc thắng trong Hội thánh  là người-con-trai. Người con trai là một tập thể, gồm “các anh em” trong câu 10 và 11.

Chúa cố ý gọi Sa-tan là “con rắn xưa” ở đây để nhắc chúng ta nhớ lời được ghi lại trong Sáng Thế Ký chương 3.

Trong sách Khải Thị chương 12, người đàn bà là Giê-ru-sa-lem sinh ra người-con-trai. Điều này không những chỉ về Giê-ru-sa-lem thuộc đất mà cũng chỉ về Giê-ru-sa-lem thiên thượng. Kinh Thánh nói Đức Chúa Trời là Cha chúng ta, Chúa là Anh cả của chúng ta, và Giê-ru-sa-lem là mẹ chúng ta (Ga. 4:26).

Mặt trời, mặt trăng và mười hai ngôi sao phù hợp với giấc mơ của Giô-sép. Do đó, những điều này chỉ về dân Israel. Giê-ru-sa-lem là trung tâm của dân Israel. Như vậy, người nữ này phải có nghĩa là Giê-ru-sa-lem.

Người nữ này là Giê-ru-sa-lem trong các chương hai mươi mốt và hai mươi hai. Thành phố này bao gồm tất cả những người được cứu trong Cựu và Tân Ước, là những người có sự sống của Đấng Christ trong họ. Người nữ trước khi sinh ra người con trai tượng trưng cho Hội thánh . Người nữ sau khi sinh ra người con trai tượng trưng cho dân Israel. Trước khi sinh ra người con trai, lời mô tả liên quan đến những điều ở trên các từng trời, mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao. Sau khi sinh ra người con trai, lời mô tả liên hệ đến tình trạng của bà ở dưới đất chạy trốn vào trong đồng vắng.

Người nữ tượng trưng cho nhiều con mà Đức Chúa Trời đã cứu rỗi. Họ sẽ bị kẻ thù bắt bớ rất nhiều; người nữ sẽ chịu khổ dưới con rắn. Họ sẽ chiến đấu cho mình nhưng vì không thể làm điều đó, Đức Chúa Trời sẽ dấy lên một vài người đắc thắng giữa vòng họ để chiến đấu cho họ. Những người đắc thắng này sẽ cai trị các nước bằng một cây gậy sắt và họ sẽ có một vị trí đặc biệt trong vương quốc. Khi họ được cất lên trời, Sa-tan sẽ bị ném xuống và họ sẽ lấy lại vị trí của Sa-tan trên trời. Khi họ ở trên đất, Sa-tan sẽ rút lui, khi họ ở trên trời, Sa-tan sẽ bị ném xuống. Đắc thắng có nghĩa là phục hồi chỗ đứng bị mất. Người con trai đắc thắng thay mặt cho người mẹ. Điều này có nghĩa là những người đắc thắng này đắc thắng thay cho Hội thánh . Vào những giai đoạn cuối cùng, Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những người đắc thắng để kết liễu trận chiến trên trời. Sự “cứu rỗi, quyền năng và vương quốc của Đức Chúa Trời chúng ta và uy quyền của Đấng Christ của Ngài” (Khải. 12:10) sẽ được họ đem lên trời. Kết quả là con rắn sẽ không có chỗ trên trời. Những người đắc thắng đi đến đâu, Sa-tan sẽ rút lui khỏi nơi đó.

Vũ Khí Của Người Đắc Thắng

Những người đắc thắng này đắc thắng kẻ thù nhờ những điều sau đây:

1. Huyết Của Chiên Con

Trước hết huyết của Đấng Christ đã đổ ra, nghĩa là sự sống của xác thịt bị đổ ra. Qua điều đó, Sa-tan sẽ không thể làm gì chúng ta được. Thức ăn của Sa-tan là bụi đất; hắn chỉ có thể hành động trong một sự sống thuộc xác thịt. Thứ hai, huyết của Đấng Christ đối phó với sự tấn công của Sa-tan. Dưới huyết của Đấng Christ chúng ta được bảo vệ khỏi sự tấn công của Sa-tan, y như người Israel được bảo vệ dưới huyết của lễ Vượt Qua. Huyết làm thỏa mãn sự công chính của Đức Chúa Trời; huyết tượng trưng cho sự chết. Vì vậy, Sa-tan không thể tấn công chúng ta. Thứ ba, huyết của Đấng Christ trả lời cho những sự kiện cáo của Sa-tan.

2. Lời Làm Chứng

Mọi công việc của Sa-tan trong Hội thánh  đều nhằm lật đổ chứng cớ. Hội thánh  là chân đèn, và chân đèn là một chứng cớ. Sa-tan muốn lật đổ Hội thánh  để lật đổ chứng cớ. Chứng cớ được nói đến ở đây đặc biệt chỉ về chứng cớ chống lại Sa-tan. Khi bị cám dỗ, Chúa nói ba câu là những lời chứng nhắm thẳng vào Sa-tan. Chúng ta cũng phải công bố một lời chứng chống lại Sa-tan. Sa-tan có thể nói với chúng ta: “Ngươi yếu đuối lắm”. Nhưng chúng ta phải nói với hắn rằng quyền năng của Chúa được làm cho trọn vẹn trong sự yếu đuối (2 Cô. 12:9). Chúng ta phải sử dụng sự chiến thắng của Đấng Christ bằng cách áp dụng Lời Đức Chúa Trời. Huyết nói lên chiến thắng của Đấng Christ. Lời chứng là sự áp dụng chiến thắng của Đấng Christ với Lời của Đức Chúa Trời.

3. Không Yêu Sự Sống Của Mình

Chúng ta phải hi sinh thân thể và sự sống của mình, không tự thương hại mình. Chúng ta phải “không coi sự sống tôi ra gì, không coi nó là quí đối với tôi” (Công. 20:24). Bởi huyết và lời chứng của mình, chúng ta không nên sợ chết nhưng phải đánh trận cho đến khi đắc thắng. Những người như vậy sẽ hoàn thành lời công bố trong Sáng Thế Ký 3:15.

Con rồng muốn nuốt người con trai là người sắp được giải cứu. Đó là lý do vì sao chúng ta bị bắt bớ và chịu khổ. Những sự bắt bớ và nỗi khổ này tạo áp lực khiến chúng ta trở nên người-con-trai, và làm cho chúng ta ở giữa những người đầu tiên được cất lên sự cất lên thứ nhất. Sự cất lên thứ nhất không những là một phước hạnh mà còn là trách nhiệm. Ai có chỗ cho con rồng trong lòng mình sẽ bị con rồng bắt bớ; người ấy sẽ trải qua đại nạn. Ai không có chỗ cho con rồng trong lòng mình sẽ đạp trên đầu con rồng. Con rồng làm bại hoại người nữ. Đó là lý do vì sao cần có dòng dõi người nữ để đập giập nó. Đức Chúa Trời sẽ không tự đánh bại con rắn. Đức Chúa Trời cần những người đắc thắng để đánh bại hắn. Nguyện chúng ta là một phần của những người đắc thắng.

(Chiều ngày 31 tháng giêng)

 Do Watchman Nee giảng và Witness Lee ghi lại tại Thượng Hải